Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2021

DẠY CON LÀM GIÀU - 2 (SỬ DỤNG ĐỒNG VỐN)

Người cha giàu thường nói, “Con không thể có tự do thật sự nếu không có tự do về tài chính”

Ông cũng sẽ nói thêm, “Tự do có thể đạt được miễn phí nhưng thường bạn cần phải trả giá để có được tự do về tài chính.”

Quyển sách này dành cho những ai sẵn sàng “trả giá”

Lời nói đầu

BẠN THUỘC NHÓM NGƯỜI NÀO?

Kim tứ đồ là cách để phân loại mọi người dựa trên xuất xứ nguồn tiền của họ

Bạn có tự do về tiền bạc không? Khi bạn đang phải vật lộn với tài chính trong cuộc đời mình, cuốn sách này hoàn toàn dành cho bạn. Nếu bạn muốn kiểm soát những gì bạn đang làm hôm nay hầu có thể thay đổi số phận tiền bạc lận đạn của mình, cuốn sách này sẽ giúp bạn vạch được một lối thoát cho riêng mình.

Trong xã hội có bốn nhóm người làm ra tiền được thể hiện trong Kim tứ đồ sau:

L: nhóm người làm công lãnh lương

T: nhóm người làm tư

C: nhóm chủ doanh nghiệp, công ty

Đ: nhóm nhà đầu tư



Một người trong chúng ta ít nhất cũng thuộc về một trong bốn nhóm người đó. Vị trí tồn tại của chúng ta trong bốn nhóm người đó sẽ quyết định nguồn thu nhập. Nhiều người dựa vào đồng lương lãnh được mỗi tháng và do đó trở thành những người làm công, trong khi đó số khác tự kinh doanh trong khuôn khổ cá nhân hay gia đình. Những người làm công hay những người làm tư nằm phía bên trái Kim tứ đồ. Phía bên phải Kim tứ đồ là những cá nhân kiếm tiền từ doanh nghiệp kinh doanh hay các khoản đầu tư của mình

Hình vẽ trên tóm tắt bốn nhóm người trong xã hội làm nên thế giới kinh doanh này, họ là những ai và những yếu tố nào hun đúc nên tính các đặc thù của mỗi một nhóm người. Kim tứ đồ giúp cho bạn thấy được mình đang thuộc nhóm người nào, để bạn có thể tự vạch cho mình một hướng hành động theo những gì bạn mong muốn trong tương lai, một khi bạn tự chọn cho mình một con đường riêng biệt có thể đưa bạn đến sự tự do về tài chính. Hẳn nhiên, sự tự do ấy có thể đạt được trong cả bốn nhóm nhưng những kỹ năng của một cá nhân thuộc nhóm C hay Đ sẽ giúp bạn đạt được mục đích nhanh chóng hơn. Một nhóm người L thành đạt đều có khả năng trở thành một cá nhân thành công thuộc nhóm Đ,

Bạn muốn trở thành ai khi bạn trưởng thành?

Đối với những độc giả chưa đọc qua Dạy con làm giàu, thì nội dung quyển sách ấy viết về những bài học khác nhau do hai người cha truyền dạy lại cho tôi về chủ đề tiền bạc và sự lựa chọn cách sống trong đời. Một người là cha ruột, còn người kia lại là cha người bạn thân nhất của tôi. Một người có một nền học vấn rất cao trong khi người kia chỉ học tới trung học. Một người thì nghèo, còn người kia lại rất giàu.

Cứ mỗi khi người ta hỏi tôi, “Cháu sẽ muốn trở thành ai khi cháu trưởng thành?”

Người cha nghèo có học thức cao của tôi luôn khuyến khích, “Hãy đi đến trường cố học cho giỏi, và tìm một công việc ổn định an toàn”.

Nói như thế, ý của Người muốn đề nghị một hướng sống như hình bên.

Người cha nghèo mong muốn tôi hoặc trở thành một nhân viên nhóm L có mức lương cao, hoặc một chuyên gia làm tư có mức phí cao như bác sĩ, luật sư hay kế toán. Người cha nghèo của tôi luôn quan tâm đến một đồng lương đều đặn, nhiều phúc lợi và công việc đảm bảo. Điều đó giải thích tại sao Người đã trở thành một công chức chính phủ có mức lương cao, trở thành một nhân vật lãnh đạo đầu ngành giáo dục của tiểu bang Hawaii.

Trong khi đó, người cha giàu nhưng ít học lại đưa ra một lời khuyên khác hẳn, Người khuyến khích thế này, “Hãy đi đến trường, tốt nghiệp đại học, sau đó tự kinh doanh và trở thành một nhà đầu tư thành công.”

Nói như thế, ý của Người muốn đề nghị một hướng sống như hình bên. Quyển sách  này sẽ viết về một quá trình giáo dục, tâm lý và cảm xúc mà tôi đã trải qua khi nghe theo lời khuyên của người cha giàu.


Quyển sách này dành cho ai?

Quyển sách này được viết dành cho những ai sẵn sàng muốn thay đổi vị trí của mình hôm nay, đặc biệt cho những cá nhân thuộc nhóm L hay T đang xem xét nhập hội với những người thuộc nhóm C hay Đ. Quyển sách này dành cho những người dám xé rào tư tưởng của việc làm bảo đảm mà hướng tới sự bảo đảm tài chính. Con đường đó dĩ nhiên sẽ không dễ dàng chút nào nhưng phần thưởng ở cuối con đường hoàn toàn xứng đáng. Con đường ấy chính là nhắm tới một sự tự do về tài chính.

Lúc tôi còn 12 tuổi, người cha giàu đã kể cho tôi nghe một câu chuyện giản dị nhưng đã hướng dẫn tôi suốt trên con đường làm giàu và đạt tới tự do về tiền bạc. Câu chuyện đó phản ánh lối giải thích của người cha giàu về sự khác nhau giữa phía bên trái Kim tứ đồ, tức là nhóm người L hay T, với phía bên phải gồm nhóm người C hay Đ. Câu chuyện như thế này.

“Ngày xưa có một ngôi làng nhỏ bé đáng yêu. Ngôi làng ấy là một chỗ ở thật tuyệt vời nhưng tiếc thay lại gặp một vấn đề nghiêm trọng. Khi trời không mưa, làng chẳng có một tí nước nào. Nhằm giải quyết vấn đề, các già làng quyết định cho gọi thầu cung cấp nguồn nước hàng ngày cho dân làng. Có hai nhân vật đứng ra nhận thầu, và các già làng đều nhận ký hợp đồng với cả hai. Họ cho rằng một sự cạnh tranh nho nhỏ giữa hai bên vừa có thể làm cho giá cả giảm xuống, lại vừa đảm bảo có đủ nước dự trữ cho làng.

Người thứ nhất tên là Ed, lập tức lên chợ mua hai thùng thiếc mạ kẽm và ngược xuôi chở nước từ hồ vào làng cách đó khoảng một dặm. Với hai thùng nước, anh ta làm việc từ sáng sớm đến chiều tối và nhanh chóng kiếm ra tiền. Ed đổ nước trong thùng vào một bể chứa nước đúc bê tông to đùng trong làng. Cứ mỗi buổi sáng, anh ta là người thức dậy trước nhất để đảm bảo lượng nước đủ dùng cho cả làng. Công việc thật cực nhọc, nhưng anh ta cảm thấy rất hạnh phúc khi làm ra tiền và đã thắng hợp đồng của làng.

Người nhận thầu thứ hai tên là Bill biến đi mất một dạo. Cả làng không nhìn thấy anh ta trong nhiều tháng, và điều đó làm cho Ed rất sung sướng vì không có cạnh tranh nên anh ta kiếm được rất nhiều tiền.

Thay vì đi mua hai thùng nước cạnh tranh với Ed, Bill phác thảo một kế hoạch kinh doanh, thành lập công ty, tìm thêm bốn đối tác đầu tư, thuê một giám đốc quán xuyến công việc và trở về với một nhóm thợ xây sau sáu tháng biệt tăm. Trong vòng một năm, nhóm thợ của Bill hoàn tất công trình lắp đặt một đường ống dẫn nước bằng inox từ hồ vào thẳng trong làng.

Vào buổi khai trương, Bill trịnh trọng tuyên bố nguồn nước cung cấp của mình sạch hơn của Ed. Trước đó Bill đã nghe thấy nhiều phàn nàn của dân làng về bụi cặn trong nguồn nước do Ed cung cấp. Bill còn tuyên bố sẽ cung cấp nước liên tục cho làng suốt 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày một tuần. Trong khi đó, Ed chỉ cung cấp nước vào những ngày trong tuần mà thôi bởi vì anh ta nghỉ làm vào cuối tuần. Tiếp theo, Bill tuyên bố sẽ chỉ lấy giá bằng 75% giá của Ed mà nguồn nước lại sạch hơn, có đều đặn hơn. Cả làng hoan hô Bill và ùn ùn xếp hàng trước đường ống do Bill xây dựng.

Để cạnh tranh, Ed lập tức hạ giá xuống còn 75% so với giá trước đây, mua thêm hai thùng nước có nắp đậy, rồi bắt đầu tăng công suất lên bốn thùng cho mỗi chuyến đi. Nhằm cung cấp dịch vụ tốt hơn, anh ta mướn hai người con của mình phụ giúp làm ca đêm và vào những ngày nghỉ cuối tuần. Khi hai đứa con lên tỉnh nhập học, anh nói với chúng, “Các con hãy nhanh chóng quay về vì sự nghiệp kinh doanh này sẽ thuộc về các con”.

Vì một lý do nào đó, hai người con của Ed sau khi tốt nghiệp đại học không chịu trở về làng. Anh ta cuối cùng phải thuê mướn nhân công và từ đó bắt đầu gặp rắc rối với vấn đề liên đoàn lao động. Liên đoàn đòi tăng lương, chu cấp thêm phúc lợi và yêu sách mỗi nhân công chỉ xách mỗi lần một thùng nước mà thôi.

Trong khi đó, Bill ý thức rằng một khi ngôi làng này cần nước thì các làng khác cũng phải có nhu cầu thiết yếu đó. Thế là anh ta phác thảo tiếp kế hoạch kinh doanh của mình, đi khắp nơi trong vùng xây dựng hệ thống cấp nước nhanh chóng, số lượng lớn, chi phí thấp và chất lượng cho mọi ngôi làng. Anh ta chỉ kiếm có một xu cho mỗi thùng nước, thế nhưng anh ta lại cung cấp hàng tỉ thùng nước mỗi ngày. Cho dù anh ta có làm việc hay không, hàng tỉ người vẫn tiêu dùng hàng tỉ thùng nước, và tất cả số tiền kiếm được đó đều chảy vào tài khoản ngân hàng của Bill. Bill đã phát kiến một đường ống không chỉ dẫn nước cho mọi làng mà còn dẫn tiền chảy vào túi của mình.

Bill sống hoàn toàn hạnh phúc sau đó, trong khi Ed phải làm việc cực nhọc suốt cả đời mà vẫn lận đận về tiền bạc. Chấm hết.”

Câu chuyện về Bill và Ed đã dẫn dắt cho tôi trong suốt nhiều năm liền, giúp cho tôi nhiều quyết định quan trọng trong đời minh. Tôi thường tự hỏi:

“Tôi sẽ đi xây một đường ống dẫn nước hay đi gánh nước?”

“Tôi sẽ lao động một cách cực nhọc hay một cách khôn ngoan?”

Và trả lời cho những câu hỏi đó đã đưa tôi đến sự tự do về tài chính.

Đó chính là những gì mà quyển sách này đề cập tới. Đó chính là cách làm thế nào trở thành một người thuộc nhóm C hay Đ. Quyển sách dành cho những ai đã quá mệt mỏi với công việc gánh nước và sẵn sàng đi xây cho mình một đường ống dẫn tiền chảy vào túi của mình chứ không phải chảy ra khỏi túi.

Quyển sách được chia làm ba phần

Phần 1

Phần đầu quyển sách sẽ nói về sự khác nhau căn bản giữa bốn nhóm người, giải thích lý do tại sao một số người rơi vào một trong bốn nhóm và bị kẹt vào đó mà không hay. Phần này sẽ giúp bạn xác định vị trí của mình hôm nay và gợi ý cho bạn một hướng đi trong vòng năm năm tới.

Phần 2

Phần hai quyển sách sẽ đề cập đến những chuyển biến về cá tính. Phần này sẽ trình bày về con người mà bạn nên trở thành hơn là những gì bạn phải làm hôm nay.

Phần 3

Phần cuối quyển sách sẽ đi sâu chi tiết về trình tự bảy bước đi mà bạn có thể thực hành theo nếu như bạn muốn hội nhập vào nhóm người nằm phía bên phải Kim tứ đồ. Tôi sẽ chia sẻ với bạn về những kỹ năng bí mật của người cha giàu vốn rất cần thiết để trở thành một người thành đạt thuộc nhóm C hay Đ. Với những điều đó, tôi hy vọng có thể giúp bạn chọn lựa một con đường đi cho mình hướng tới sự tự do về tài chính.

Xuyên suốt cuốn sách, tôi luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự thông minh về tài chính. Nếu bạn muốn sống và hành động ở nhóm bên phải của Kim tứ đò, tức là nhóm người C hay Đ, bạn cần phải thông minh và nhạy bén hơn lúc bạn chọn ở lại bên trái của Kim tứ đồ như một người thuộc nhóm L hay T.

Để trở thành một người thuộc nhóm C hay Đ, bạn phải kiểm soát được hướng chảy tiền bạc của mình. Quyển sách này được viết với mục đích dành cho những bạn sẵn sàng làm một cú đột phá trong đời mình, dành cho những ai dám vượt xa hơn sự bảo đảm bảo việc làm hướng tới sự tự do về tiền bạc.

Chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của Thời đại Thông tin, một thời đại sẽ mang lại nhiều cơ hội tiền bạc vô giá hơn bao giờ hết. Chính những cá nhân có kỹ năng của một người thuộc nhóm C hay Đ mới có khả năng nhận biết và nắm bắt những cơ hội ngàn vàng đó. Để thành đạt trong Thời đại Thông tin, bạn phải hiểu biết về bốn nhóm người đó trong  xã hội. Một điều đáng tiếc là hệ thống giáo dục của chúng ta vẫn còn thuộc về Thời đại Công nghiệp, vẫn trang bị cho sinh viên những kỹ năng chỉ để trở thành những con người thuộc nhóm bên trái của Kim tứ đồ.

Nếu bạn muốn tìm kiếm một câu giải đáp mới cho một hướng đi cuộc đời trong Thời đại Thông tin, quyển sách  này hoàn toàn dành cho bạn. Nó sẽ giúp bạn trong suốt cuộc hành trình ở kỷ nguyên mới này. Dĩ nhiên, quyển sách này không phải lúc nào cũng có mọi câu trả lời thỏa đáng, nhưng nó sẽ chia sẻ với bạn về những kinh nghiệm cá nhân sâu sắc, những khám phá đầy ích lợi và thiết thực mà chính bản thân tôi đã trải qua trong cuộc phiêu lưu xuất phát từ phía bên nhóm L hay T và về đích tới nhóm C hay Đ.

Nếu bạn đã thực sự sẵn sàng bắt đầu cuộc hành trình, hoặc nếu bạn đã đặt chân trên con đường tìm đến tự do về tài chính, tôi xin trân trọng tặng riêng cho bạn quyển sách này.

Phần một

KIM TỨ ĐỒ

Chương 1

TẠI SAO ANH KHÔNG KIẾM LẤY MỘT CÔNG VIỆC?

__________________________________________________________________

Đối với một người coi trọng công ăn việc làm, thật khó lòng giải thích cho người ấy hiểu lý do tại sao mình không muốn kiếm việc làm.

__________________________________________________________________

Vào năm 1985, Kim – vợ tôi và tôi không có nhà để ở. Chúng tôi đều bị thất nghiệp và chẳng còn một đồng xu nào trong tài khoản tiết kiệm của mình. Thẻ tín dụng đã bị xài hết mức. Chúng tôi phải ngủ qua đêm trong một chiếc xe Toyota nâu cũ kỹ. Khi đến ngày cuối của một tuần nọ, chúng tôi bắt đầu thấm thía thực tế phũ phàng trước mắt mình, luôn bị dằn vặt bởi những câu hỏi chúng tôi là ai, đang làm gì và cuộc đời của chúng tôi sẽ trôi về đâu.

Tình trạng vô gia cư của chúng tôi kéo dài thêm hai tuần. Cuối cùng, một người bạn thông cảm với tình hình tài chính thê thảm của chúng tôi đã cho chúng tôi về ở trong một căn phòng ở tầng hầm dưới nhà cô. Chúng tôi đã cư trú ở đó trong suốt chín tháng trời ròng rã.

Chúng tôi giữ kín chuyện của mình với mọi người. Vợ tôi và tôi cố giữ bề ngoài trông thật bình thường. Cho đến khi bạn bè và gia đình biết cảnh ngộ khốn khổ của chúng tôi, câu hỏi đầu tiên của họ luôn là: “Tại sao anh không kiếm lấy một công việc?”.

Lúc đầu chúng tôi còn cố giải thích, nhưng rồi chúng tôi thấy không đủ khả năng lý giải nguyên nhân của mình với mọi người. Đối với một người coi trọng công ăn việc làm, thật khó lòng giải thích cho người ấy hiểu lý do tại sao mình không muốn kiếm việc làm.

Dĩ nhiên, chúng tôi cũng phải làm thêm một vài công việc lặt vặt đây đó, nhưng những đồng tiền cỏn con đó chỉ cốt để làm no bao tử của mình và đổ xăng đi lại. Những đồng lương ít ỏi ấy chúng tôi coi chúng chẳng khác nào như những lít xăng đẩy chúng tôi theo đuổi mục tiêu duy nhất của mình. Tôi phải thừa nhận rằng trong những tháng năm đầy hoài nghi dằn vặt đó, ý tưởng về một việc làm ổn định, an toàn với một đồng lương khấm khá thật hết sức cám dỗ với chúng tôi. Nhưng bởi vì sự bảo đảm việc làm không phải là những gì chúng tôi tìm kiếm, nên chúng tôi phải vật lộn hàng ngày trên bờ vực tiền bạc gian nan đó.

Năm đó, năm 1985 là năm khốn khó nhất trong cuộc đời của chúng tôi, và dài đằng đẵng như cả thế kỷ. Người nào nói tiền bạc không quan trọng chắc chắn người ấy chưa bao giờ nếm mùi không có tiền bạc trong một khoảng thời gian dài. Kim và tôi cứ liên tục cãi vã và tranh luận. Sợ hãi, lo âu về một tương lai mờ mịt và cái đói gặm nhấm hợp lại càng làm tăng kịch tính cảm xúc của con người, khiến chúng ta thường xuyên gây gổ với người thương yêu chúng ta nhiều nhất. Thế nhưng, tình yêu mãnh liệt đã nối kết hai đứa chúng tôi lại với nhau, làm cho chúng tôi càng gắn chặt nhau hơn để đương đầu trước nghịch cảnh. Chúng tôi thừa biết chúng tôi đang đi theo hướng nào, nhưng chỉ có điều chúng tôi không biết mình có thể đi được đến đích hay không.

Chúng tôi biết rõ mình lúc nào cũng có thể xin được một việc làm bảo đảm với mức lương hậu hĩ. Cả hai chúng tôi đều tốt nghiệp đại học, có chuyên môn vững và thái độ làm việc rất nghiêm túc. Nhưng chúng tôi không nhắm tới sự bảo đảm việc làm đó. Điều mà chúng tôi nhắm tới chính là sự tự do về tài chính cho bản thân mình.

Vào khoảng năm 1989, chúng tôi trở thành triệu phú. Mặc dù chúng tôi giàu có trong con mắt của nhiều người, nhưng bản thân chúng tôi vẫn chưa thỏa mãn vì chưa đạt được giấc mơ của mình. Chúng tôi vẫn chưa đạt được sự tự do thực sự về tiền bạc. Mãi đến năm 1994, giấc mơ ấy mới thành hiện thực. Từ đó trở đi đến cuối cuộc đời, chúng tôi sẽ không phải làm công cho ai nữa. Ngoại trừ một thảm họa tài chính bất ngờ ụp xuống, cho đến nay chúng tôi hoàn toàn được giải phòng về mặt tiền bạc. Lúc ấy, Kim tròn 37 tuổi và tôi được 47 tuổi.

Không phải có tiền mới làm ra tiền

Sở dĩ tôi bắt đầu quyển sách này về tình trạng không nhà cửa và nghèo túng của mình bởi vì tôi thường nghe mọi người nói, “Phải có tiền mới làm ra tiền”.

Tôi không đồng ý với quan điểm đó. Từ tình trạng vô gia cư năm 1985 cho tới lúc trở nên giàu có vào năm 1989 và sau đó được tự do về tài chính vào năm 1995, quá trình ấy không hề bắt đầu với tiền bạc. Khi chúng tôi khởi sự, chúng tôi chẳng những không có tiền mà còn bị mắc nợ.

Cũng không phải cần có một nền học vấn chính quy đỗ đạt mới làm ra tiền. Tôi tốt nghiệp đại học, nhưng tôi dám nói thẳng rằng sự tự do về tiền bạc mà tôi đạt được chẳng dây mơ rễ má đến những gì tôi được học ở đại học. Tôi chẳng hề sử dụng một tí gì từ những môn tôi được dạy về tích phân, lượng giác, hóa học, vật lý, văn chương Pháp, hay văn chương Anh.

Nhiều người thành công trong đời thường bỏ ngang đại học. Những nhân vật như Thomas Edison, người sáng lập tập đoàn General Electric, Henry Ford, chủ hãng xe Ford; Bill Gates, cha đẻ tập đoàn Microsoft; Ted Turner cha đẻ hãng thông tấn CNN; Micheal Dell, người sáng lập tập đoàn máy vi tính Dell; Steve Jobs, người sáng lập Apple; và Ralph Lauren, người sáng lập hàng Polo. Bằng cấp đại học chỉ quan trọng đối với những chuyên ngành cổ điển chứ không ích lợi gì đối với việc những nhân vật đó làm cách nào trở thành tỉ phú. Những con người đó đã tự tạo ra ngành kinh doanh thành công riêng cho mình, và đó chính là điều mà Kim và tôi hằng khát khao đạt đến.

Vậy thì cái gì mới làm ra tiền?

Nhiều người thường hỏi tôi, “Nếu không cần phải có tiền để làm ra tiền, và trường học không dạy anh cách đạt được sự tự do về tài chính, thế thì những điều gì mới làm ra tiền”.

Câu trả lời của tôi là: Cần phải có một giấc mơ, một khao khát, một ý chí quyết định dứt khoát, một khả năng học hỏi nhanh, biết sử dụng những thiên phú có sẵn trong mình và biết phần nào trong Kim tứ đồ tạo ra thu nhập cho mình.

Kim tứ đồ là gì?

Sơ đồ sau đây chính là Kim tứ đồ


Vị trí nào trong Kim tứ đồ đem lại thu nhập cho bạn?

Kim tứ đồ thể hiện bốn cách khác nhau tạo ra tiền bạc cho mọi người. Chẳng hạn, một người làm công kiếm tiền nhờ làm thuê cho một người nào đó hay một công ty. Những người làm tư kiếm tiền bằng cách tự làm việc cho chính mình. Một doanh nhân kiếm tiền từ công việc kinh doanh của mình, và các nhà đầu tư kiếm tiền từ nhiều hình thức đầu tư đa dạng mà nói khác đi chính là từ việc sử dụng tiền để tạo ra thêm nhiều tiền hơn.

Những phương cách kiếm tiền khác nhau đó đòi hỏi những kiểu suy nghĩ, lối sống, kỹ năng chuyên môn, đường lối hấp thu giáo dục, và những cá tính tương thích. Những loại người khác nhau sẽ bị lôi kéo vào những phần khác nhau trong Kim tứ đồ.

Trong khi tiền bạc là đối tượng chung, những cách kiếm tiền thì lại thiên hình vạn trạng. Giả như bạn bắt đầu lưu tâm đến sự phân chia trên Kim tứ đồ, có lẽ bạn sẽ tự hỏi mình câu này, “Tôi kiếm được tiền chủ yếu từ phần nào trong Kim tứ đồ?”.

Mỗi phần của Kim tứ đồ đều khác nhau. Để kiếm được tiền từ những phần khác nhau cần phải có những kỹ năng và cá tính khác nhau, cho dù một người có thể ở cùng lúc những phần khác nhau đó.

Bạn có thể kiếm tiền từ bốn nhóm trên Kim tứ đồ

Hầu hết chúng ta đều có khả năng kiếm tiền từ cả bốn nhóm trên Kim tứ đồ. Nhóm người nào mà bạn hay tôi thuộc về đó và chủ yếu kiếm thu nhập từ đó không phải được quyết định bởi những gì chúng ta được học ở trường, mà chính là những gì thuộc về bản thân của chúng ta – đó là những quan điểm về giá trị, những ưu điểm, khuyết điểm và sở thích cá nhân. Chính những sự khác nhau gốc rễ đó đã thu hút hay làm chúng ta dội ngược với những nhóm đó trong Kim tứ đồ.

Tuy nhiên, cho dù chúng ta có làm một ngành nghề chuyên môn nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể tồn tại và làm việc trong cả bốn nhóm. Chẳng hạn, một bác sĩ có thể chọn lựa cách kiếm tiền như một người làm công – thuộc nhóm L, bằng cách gia nhập vào đội ngũ bác sĩ trong một bệnh viên lớn, hoặc làm việc cho chính phủ trong những dự án chăm sóc y tế cộng đồng hay trở thành bác sĩ quân y, hoặc làm việc cho một công ty bảo hiểm sức khỏe và nhân thọ.

Vị bác sĩ ấy cũng có thể chọn lựa cách kiếm tiền như một người làm tư – thuộc nhóm T, mở một phòng mạch tư, thuê mướn một vài y tá và lôi kéo một số bệnh nhân cho riêng mình.

Hoặc vị bác sĩ ấy có thể quyết định trở thành một doanh nhân thuộc nhóm C, làm chủ một bệnh viện tư và thuê mướn các bác sĩ khác làm việc trong bệnh viện đó của mình. Vị bác sĩ có thể xem xét khả năng mướn một vị quản lý điều hành công ty – bệnh viện của mình, và như vậy trong trường hợp đó vị bác sĩ làm chủ một công việc kinh doanh nhưng không cần phải làm việc trong đó. Vị bác sĩ cũng có thể quyết định làm chủ một ngành nghề kinh doanh nào đó chả liên quan gì đến ngành y, nhưng vẫn thực hành nghề y của mình ở một nơi nào đó. Trong trường hợp ấy, vị bác sĩ có thể tạo ra thu nhập vừa như người thuộc nhóm L, vừa như người thuộc nhóm C.

Còn đối với nhóm D, vị  bác sĩ có thể kiếm tiền bằng cách trở thành cổ đông hùn vốn vào một chuyện kinh doanh của người khác hay bằng nhưng công cụ đầu tư như thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, thị trường bất động sản.

Những từ quan trọng nhất chính là những từ “kiếm tiền từ”. không phải ngành nghề chúng ta đang làm là quan trọng, mà chính cách chúng ta kiếm tiền mới là quan trọng hơn hết.

Những phương cách khác nhau tạo ra thu nhập

Chính những sự khác nhau gốc rễ về quan điểm giá trị, ưu khuyết điểm và sở thích mới ảnh hưởng đến việc chúng ta chọn lựa phương cách tạo ra thu nhập từ nhóm nào. Nhiều người chỉ thích làm công, trong khi nhiều người khác lại rất ghét chuyện ấy. Nhiều người say mê việc làm chủ một công ty nhưng lại không muốn điều hành nó, nhưng cũng biết bao nhiêu người vừa thích làm chủ công ty lại vừa thích tự quản lý điều hành công ty của mình. Nhiều người rất ưa thích việc đầu tư, trong khi trong con mắt của nhiều người khác chỉ thấy nguy cơ bị mất tiền. Hầu hết chúng ta đều ít nhiều có hết những tính cách đó. Để có thể thành công trong bốn nhóm, chúng ta phải có sự định hướng thích nghi những giá trị gốc rễ tương ứng trong con người chúng ta.

 Bạn có thể giàu hoặc nghèo ở cả bốn nhóm

Một điều không kém quan trọng cần lưu ý là chúng ta có thể giàu hay nghèo ở cả bốn nhóm. Trong mỗi nhóm, có nhiều người có thể kiếm được hàng triệu đô nhưng cũng có vô số người bị khánh kiệt. Thuộc vào nhóm này hay nhóm khác không nhất thiết đảm bảo sẽ thành công về tài chính.

Không phải bốn nhóm đều như nhau

Hiểu được những đặc thù của bốn nhóm trong Kim tứ đồ, bạn sẽ nhận định được nhóm nào thích hợp nhất với bạn

Chẳng hạn, một trong nhiều lý do khiến tôi chủ yếu hành động như nhóm người C hay Đ là do những lợi thế về thuế. Đối với những người làm việc ở phần bên trái Kim tứ đồ, có rất ít khả năng giảm thuế hợp pháp, không như đối với phần bên phải của Kim tứ đồ. Khi làm việc tạo ra thu nhập thuộc nhóm người C hay Đ, tôi có thể kiếm tiền nhanh hơn và bắt đồng tiền đố làm việc cho tôi lâu hơn mà không phải trả thuế quá mức.

Những cách kiếm tiền khác nhau

Kim tứ đồ phân biệt rõ những cách khác nhau mà con người sử dụng để tạo ra tiền cho mình. Có những cách tạo ra tiền đầy ý thức trách nhiệm hơn là phải làm lụng vì nó.

Hai người cha khác nhau và những quan điểm khác nhau về tiền bạc

Người cha có học thức cao của tôi có niềm tin sâu sắc rằng sự đam mê tiền bạc là tội lỗi. Việc kiếm lợi quá mức chỉ biểu hiện sự tham lam. Người đã rất ngượng nghịu khi báo chí đăng tải mức lương của Người, chỉ bởi vì Người cảm thấy đã được trả lương quá mức trong khi những giáo viên khác làm việc cho Người đang lãnh một đồng lương ít ỏi. Cha tôi là một con người trung hậu, thật thà và cần mẫn, lúc nào cũng bảo vệ hết lòng quan điểm của mình là tiền bạc không phải vấn đề quan trọng đối với cuộc đời mình.

Người cha có học thức cao nhưng nghèo của tôi luôn nói:

·        “Ta không quan tâm đến tiền bạc”

·        “Ta sẽ không bao giờ giàu”

·        “Ta không đủ sức mua vật ấy”

·        “Đầu tư là rủi ro”

·        “Tiền không phải là mọi thứ”

Tiền bạc hỗ trợ cho cuộc sống

Người cha giàu của tôi lại có quan điểm khác hẳn. Người cho rằng thật là khờ dại khi phải bỏ cả cuộc đời làm việc vì tiền và giả vờ coi tiền là không quan trọng. Người cha giàu tin rằng cuộc sống quan trọng hơn tiền rất nhiều, nhưng tiền lại quan trọng trong việc hỗ trợ cuộc sống. Người thường nói, “Con chỉ có bấy nhiêu giờ trong một ngày, vậy mà con lại làm việc thật là cực nhọc. Vậy sao phải làm việc cực nhọc vì tiền? Hãy học cách điều khiển tiền bạc và nhân sự làm việc lại cho con, và khi ấy con có thể rảnh rỗi làm những chuyện quan trọng của đời con.”

Đối với người cha giàu, những gì quan trọng sẽ là:

·        Có nhiều thời gian để chăm lo cho con mình

·        Có tiền làm việc từ thiện và tài trợ cho những công trình cần thiết

·        Tạo ra công ăn việc làm và sự ổn định về tài chính cho cộng đồng

·        Có thời gian và tiền bạc chăm sóc sức khỏe cho chính bản thân mình

·        Có thể du lịch vòng quanh thế giới cùng với người thân

“Những chuyện đó phải cần tiền”, người cha giàu bảo. “Đó chính là lý do tại sao tiền bạc lại trở nên quan trọng đối với ta. Tiền bạc quan trọng nhưng ta không muốn bỏ cả đời mình làm việc cho nó”.

Chọn lựa vị trí

Một nguyên nhân tại sao hai vợ chồng tôi luôn tập trung vào những nhóm C và Đ giữa lúc chúng tôi không có nhà để ở, là bởi vì tôi đã được tiếp thu kinh nghiệm và được dạy dỗ rất nhiều về những nhóm người ấy. Chính nhờ sự hướng dẫn của người cha giàu đã giúp cho tôi hiểu rõ các ưu thế về tài chính và sự chuyên nghiệp khác nhau giữa mỗi nhóm. Đối với tôi, những nhóm nằm bên phải Kim tứ đồ, tức là nhóm C và Đ, mới đem lại những cơ hội tốt nhất cho sự thành đạt về tài chính và sự tự do về tiền bạc.

Ở ngưỡng cửa 37 tuổi đời, tôi đã từng trải qua biết bao thành công và thất bại ở cả bốn nhóm, mà nhờ đó đã giúp tôi hiểu thấu rõ được phần nào những tính cách cá nhân của bản thân mình, những sở thích, cái hay và cái dở. Và tôi đã biết được nhóm nào tôi sẽ thành công khi hành động trong đó.

Các bậc cha mẹ là thầy giáo

Ngay từ khi tôi còn nhỏ, người cha giàu đã thường xuyên đề cập đến Kim tứ đồ. Người đã giải thích với tôi về sự khác nhau giữa một người thành đạt ở phía bên trái và bên phải của Kim tứ đồ. Thế nhưng lúc đó vì quá nhỏ, tôi chưa lĩnh hội hết những gì Người nói. Tôi không hiểu được sự khác nhau trong cách suy nghĩ, lập luận giữa một người làm công với một người làm chủ. Đơn giản, tôi chỉ lo làm sao có thể tồn tại được trong trường và lên lớp.

Thế nhưng, tôi đã nghe những gì Người nói và những điều đó chẳng bao lâu trở nên có ý nghĩa đối với tôi. Có hai người cha năng động và thành công ở cạnh đã giúp cho tôi có thể đối chiếu và hiểu được những lời nói của mỗi người. Chính những gì hai người cha đang làm và hành động đã minh họa rõ nét nhất sự khác nhau giữa phía L-T và phía C-Đ của Kim tứ đồ. Lúc đầu, những sự khác nhau đó mờ nhạt nhưng dần dần chúng càng trở nên rõ nét.

Chẳng hạn, một kinh nghiệm đau khổ nhất đối với tôi khi còn nhỏ là khoảng thời gian mà người cha này đã chơi với tôi so với người cha kia. Khi cả hai người cha mỗi lúc một thành công và nổi tiếng, tôi nhận thấy rất rõ một trong hai người càng có ít thời gian bên cạnh vợ và bốn đứa nhỏ của mình. Người cha ruột của tôi lúc nào cũng ở ngoài đường, bận rộn với các buổi họp liên miên, hoặc vội vã chạy ra phi trường bắt kịp chuyến bay đến những buổi họp khác. Người càng thành công chừng nào thì lại càng ít ăn cơm tối với gia đình chừng nấy. Vào những ngày nghỉ cuối tuần ở nhà, Người lại vùi đầu vào hàng đống giấy tờ công việc trong phòng làm việc nhỏ bé của Người.

Trong khi đó, người cha giàu càng có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn khi Người càng thành công hơn. Một trong những lý do khiến tôi đã được học thật nhiều về tiền bạc, tài chính, chuyện kinh doanh và sự đời chỉ vì người cha giàu càng lúc càng có nhiều thời gian hơn nói chuyện với con của Người và với tôi.

Một kinh nghiệm khác là cả hai người cha khi càng thành công càng kiếm ra được nhiều tiền, thế nhưng người cha ruột học thức của tôi lại càng lún sâu vào nợ nần. Và vì thế, Người càng làm việc cật lực hơn để rồi nhận ra mình càng bị đánh thuế thu nhập nhiều hơn. Chủ ngân hàng và kế toán của Người khuyên Người đi mua một căn nhà to hơn để giảm thuế (1). Và thế là Người nghe theo, mua một căn nhà to hơn, nhưng cũng vì thế Người càng phải ra sức làm việc để có đủ tiền trả căn nhà mới, và những điều đó càng làm cho Người mỗi lúc một xa với tổ ấm của mình.

(Ở Mỹ, khi một cá nhân vay tiền ngân hàng để mua nhà, số tiền lãi  phải trả  cho ngân hàng được phép coi là khoản chi phí hợp lý khấu trừ vào thu nhập chịu thuế, do đó làm giảm thuế thu nhập cá nhân )

Người cha giàu lại khác hẳn. Người làm ra thật nhiều tiền, nhưng lại trả ít thuế hơn. Người cũng có chủ ngân hàng và kế toán riêng của mình, nhưng Người không nghe theo lời tư vấn như người cha ruột học thức của tôi.

Nguyên nhân chính

Thế nhưng, động cơ chính thúc đẩy tôi vượt rào từ phía bên trái sang phía bên phải của Kim tứ đồ lại là những gì đã đổ xuống cuộc đời người cha nghèo có học thức cao của tôi, giữa lúc Người đang đứng trên đỉnh cao sự nghiệp.

Vào đầu những năm 70, tôi đã tốt nghiệp xong đại học và gia nhập một khóa đào tạo phi công lái máy bay ở Pensacola thuộc tiểu bang Florida. Người cha học thức của tôi lúc ấy đang giữ chức Tổng Thanh tra ngành giáo dục của tiểu bang Hawaii và là một thành viên trong Ban Tư vấn cho Thống đốc tiểu bang. Sau cuộc bầu cử Thống đốc tiểu bang, vị thống đốc được tái nhiệm – tức giận vì cha tôi đã tham gia vận động tranh cử cho đối thủ của mình – đã âm thầm chỉ thị không cho phép cha tôi được làm lại trong chính phủ ở tiểu bang Haiwwaii. Và Người đã không bao giờ kiếm được việc làm như cũ. Ở tuổi 54, cha tôi phải chạy đi xin việc làm, còn tôi thì trên đường tòng quân.

Ở lứa tuổi ngũ tuần ấy, cha tôi đành đi kiếm một việc làm mới. Người làm từ chỗ này đến chỗ khác với chức danh nghe thật kêu nhưng lương thấp. Đại loại như chức quản lý điều hành một cơ quan phi lợi nhuận XYZ, hoặc giám đốc một tổ chức ABC cũng phi lợi nhuận.

Cha tôi là một người đàn ông cao ráo, thông minh và năng động, nhưng Người không bao giờ còn được chào đón trong thế giới mà Người đã làm việc hơn nửa cuộc đời, thế giới của những công chức chính phủ. Người xoay ra làm ăn, bắt đầu với một vài chuyện kinh doanh nhỏ. Có một dạo Người làm tư vấn, và còn mua nhượng quyền một thương hiệu nổi tiếng, nhưng tất cả đều thất bại. Khi Người càng lớn tuổi, bầu nhiệt huyết trong Người càng giảm, và sự dũng cảm dám bắt đầu lại từ đầu cũng suy yếu dần. Ý chí của Người mỗi lúc một giảm bớt đi sau mỗi vụ kinh doanh thất bại. Người đã từng là một người làm công thành đạt trong nhóm L, nay cố tồn tại trong nhóm T mà Người không hề có kinh nghiệm và sự đam mê của chính mình. Người yêu thích ngành giáo dục công cộng vô cùng, nhưng chẳng có cách nào quay trở lại với thế giới ấy. Chính quyền tiểu bang đã ngầm chỉ đạo cấm mọi cơ sở giáo dục tuyển dụng Người, mà trên một khía cạnh nào đó ta có thể coi Người đã bị liệt vào “sổ bìa đen”.

Nếu không có bảo hiểm xã hội và y tế, có lẽ những năm tháng cuối đời Người đã bị nghèo túng khốn khổ. Người qua đời với một tâm trạng cực kỳ nản chí và phẫn nộ, nhưng lương tâm của Người hoàn toàn an ổn và trong sạch.

Như vậy điều gì đã khiến tôi cam tâm chịu đựng những năm tháng đen tối ấy vào năm 1985? Đó chính là ký ức khủng khiếp về một người cha có học thức phải ngồi ở nhà chờ từng tiếng điện thoại reo, và cố thành công trong thế giới kinh doanh mà ở đó Người chẳng biết một tí gì.

Chính điều đó, và chính ký ức êm đềm khi chứng kiến người cha giàu mỗi lúc một hạnh phúc và thành công khi Người càng lớn tuổi đã đem lại cho tôi một khao khát đầy cảm hứng. Thay vì lụn bại ở tuổi 54, người cha giàu đã thành công ngoài sức tưởng. Trước đó nhiều năm Người đã giàu rồi, nhưng đến lúc đó Người lại càng giàu hơn gấp trăm ngàn lần. Người thường xuyên xuất hiện trên mặt báo như một doanh nhân đã mua đứt vùng Waikiki và Maui. Những năm tháng miệt mài xây dựng kinh doanh và đầu tư có phương pháp đã giúp cho Người gặt hái những mùa bội thu, và làm cho Người trở thành một trong những tỉ phú giàu nhất Haiwaii

Sự khác nhau nhỏ bé có thể dẫn đến sự khác nhau to lớn

Vì người cha giàu đã giải thích cặn kẽ Kim tứ đồ cho tôi, nên tôi có thể thấy rõ những sự khác nhau nhỏ bé mỗi lúc một lớn theo thời gian làm việc của một con người. Nhờ có Kim tứ đồ, tôi có thể tập trung vào việc chọn lựa nhóm mà tôi muốn gia nhập, hơn là chọn lựa những gì tôi muốn làm. Trong những năm tháng thê thảm nhất của đời mình, chính sự hiểu biết sâu sắc và những kinh nghiệm rút ra từ cuộc đời của hai người cha có tác động mạnh mẽ, đã giúp tôi chịu đựng và vượt qua.

Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở Kim tứ đồ

Kim tứ đồ chẳng qua chỉ là những nét gạch và một vài ký tự trong đó. Nhưng nếu bạn quan sát bên dưới bề mặt của hình vẽ đơn giản ấy, bạn sẽ nhìn thấy được những thế giới hoàn toàn khác nhau cũng như những góc nhìn khác nhau nhìn về thế giới. Khi một người nhìn bằng cặp mắt của cả nhóm bên trái lẫn bên phải Kim tứ đồ, tôi có thể thú thật là thế giới sẽ rất khác nhau tùy theo vị trí người ấy đang đứng và vị trí trong xã hội. Và những sự khác nhau ấy chính là đề tài chủ yếu của quyển sách.

Sau khi đọc quyển sách này, sẽ có bạn muốn thay đổi ngay cách kiếm tiền của mình, nhưng cũng có bạn hoàn toàn hạnh phúc khi tiếp tục thế đứng của mình trong xã hội. Bạn có thể chọn hành động cùng lúc trong nhiều nhóm, thậm chí ở cả bốn nhóm. Tất cả chúng ta đều rất khác nhau, và một nhóm này không chắc quan trọng hay tốt hơn nhóm khác. Trên mỗi ngôi làng, thị tứ, thành phố hay mỗi quốc gia trên thế giới, vẫn rất cần có mọi người hoạt động ở bốn nhóm nhằm đảm bảo sự ổn định về tài chính trong cộng đồng.

Hơn thế nữa, khi chúng ta già đi và tích lũy nhiều kinh nghiệm khác nhau, sở thích của chúng ta sẽ thay đổi. Chẳng hạn, tôi nhận thấy có nhiều thanh niên sau khi ra trường thường hài lòng khi kiếm được một việc làm. Thế nhưng sau một vài năm, nhiều người trong số ấy sẽ không còn hứng thú leo từng bậc thang chức vụ trong công sở, hoặc hết đam mê với lĩnh vực kinh doanh mà mình đang hoạt động. Những thay đổi về tuổi tác và kinh nghiệm thường khiến một người đi tìm những cái đích mới để phát triển, được thách thức, kiếm nhiều tiền hơn và nhiều hạnh phúc cá nhân hơn. Tôi hy vọng quyển sách này có thể đem lại cho bạn một vài đột phá trong tư duy và ý tưởng để đạt được những mục tiêu đó.

Nói tóm lại, quyển sách này không viết về chuyện vô gia cư, mà là chuyện tìm kiếm một ngôi nhà trú ẩn, một ngôi nhà trong một nhóm hay cả bốn nhóm người của xã hội.

Chương 2

NHỮNG CON NGƯỜI KHÁC NHAU THUỘC NHỮNG NHÓM KHÁC NHAU

_________________________________________________________________

Thay đổi nhóm thường là một sự thay đổi cách mạng về con người của con

_________________________________________________________________

“Không thể dạy cho một con chó già những trò chơi mới được”, người cha có học thức cao của tôi hay nói câu ấy.

Tôi đã từng ngồi trò chuyện với Người nhiều lần, cố gắng giải thích cho Người hiểu Kim tứ đồ mà tôi hy vọng có thể nhờ đó giúp cho Người lóe lên những hướng đi mới trong vấn đề tiền bạc. Khi gần đến tuổi 60, Người mới nhận ra nhiều giấc mơ của mình sẽ không bao giờ thực hiện được.

“Ta đã thử nhưng nó không thành công con ạ”, Người nói thế.

Cha tôi muốn ám chỉ đến những nỗ lực của mình cố thành công trong nhóm T như một chuyên viên tư vấn làm tư, và trong nhóm C khi Người đã đem hết toàn bộ số tiền dành dụm được để làm vốn kinh doanh nhượng quyền hãng kem nổi tiếng, nhưng rồi đã bị thất bại hoàn toàn.

Vốn thông minh, Người hiểu được về mặt lý thuyết là cần phải có những kỹ năng khác nhau cho mỗi nhóm khác nhau. Người biết có thể học chúng rất mau nếu như Người muốn. Thế nhưng vẫn có điều gì đó kìm hãm Người lại.

Một bữa nọ sau khi ăn trưa xong, tôi trò chuyện với người cha giàu về cha ruột của tôi.

“Cha con và ta không giống nhau từ gốc rễ con ạ”, người cha giàu nói. “Trong khi chúng ta đều là con người cùng có những cảm giác sợ hãi, lo âu, niềm tin, ưu điểm và khuyết điểm, cách chúng ta phản ứng và xử lý những điều đó lại khác nhau vô cùng”.

“Cha có thể cho con biết sự khác nhau không?”, tôi hỏi

“Không thể nói hết trong một bữa ăn trưa đâu”, người cha giàu nói. “Nhưng cách chúng ta phản ứng trước những sự khác nhau đó chính là nguyên nhân khiến cho chúng ta cứ bám lại với nhóm này hay nhóm khác. Khi cha con cố gắng đi từ nhóm L sang nhóm C, ông có thể hiểu được quá trình ấy về mặt lý trí, nhưng lại không thể thực hiện được về mặt cảm tính. Khi sự việc bắt đầu trục trặc và ông bị lỗ, ông không biết cách làm thế nào giải quyết vấn đề, và thế là cha con lại quay về với nhóm mà ông cảm thấy thoải mái nhất”.

“Trở lại với nhóm L và thỉnh thoảng nhóm T”, tôi nói.

Người cha giàu gật đầu. “Khi nỗi sợ bị mất tiền và thất bại trở nên quá mức đến cào xé trong lòng, nỗi sợ mà cả ta và cha con đều có, cha con liền chọn giải pháp bảo đảm trong khi ta chọn giải pháp tự do”.

“Và đó chính là sự khác nhau căn bản”, tôi vừa nói vừa vẫy tay cho bồi bàn tính tiền.

“Mặc dù chúng ta đều la con người”, người cha giàu lặp lại, “khi đụng đến tiền bạc và những cảm xúc dính đến tiền bạc, tất cả chúng ta đều phản ứng khác nhau. Và chính cách chúng ta phản ứng trước những cảm xúc ấy thường quyết định cách chúng ta chọn lựa cách kiếm tiền”.

“Những con người khác nhau thuộc những nhóm khác nhau”, tôi nói.

“Đúng vậy, người cha tiếp tục nói khi chúng tôi đứng dậy và bước ra cửa. “Nếu con muốn thành công trong bất kỳ nhóm nào, con cần phải biết nhiều thứ khác chứ không chỉ là những kỹ năng cần có. Con cũng cần phải biết những sự khác nhau gốc rễ đã khiến cho mọi người đóng chốt ở những nhóm khác nhau. Năm được điều đó, cuộc đời sẽ trở nên dễ dàng hơn với con rất nhiều”.

Tôi bắt tay người cha giàu và nói lời từ biệt khi tài xế lái chiếc xe của Người lại gần.

“Ồ cha à, còn một điều cuối cùng”, tôi nói vội vã. “Cha con có thay đổi được không?”.

“Dĩ nhiên là được”, người cha giàu nói. “Ai cũng có thể thay đổi được cả. Nhưng thay đổi nhóm mình theo không giống như chuyện đổi việc hay đổi nghề đâu. Thay đổi nhóm thường là một sự thay đổi cách mạng về con người của con, cách suy nghĩ và cách nhìn về xã hội, thế giới. Sự thay đổi đó có thể dễ dàng với người này hơn người khác chỉ vì có nhiều người thích sự thay đổi, trong khi cũng có khối kẻ khác rất bảo thủ. Đổi nhóm thường là một kinh nghiệm đổi đời. Sự thay đổi ấy thật mãnh liệt và triệt để y như sự thay đổi thoát khỏi kén của con nhộng thành con bướm. Không những bản thân con thay đổi mà bạn bè con cũng sẽ thay đổi. Trong khi con vẫn giao hảo tốt với những người bạn cũ, nhưng sự thay đổi của con sẽ ảnh hưởng đến sự giao hảo đó, giống như những con bướm thật khó lòng sinh hoạt giống như những con nhộng. Do đó, sự thay đổi ấy là một cuộc cách mạng thực sự, và không có nhiều người dám đương đầu và chấp nhận sự thay đổi ấy đâu”.

Đâu là sự khác nhau?

Làm sao tôi có thể nhận ra người nào thuộc nhóm L, T, C hay Đ mà không biết nhiều về họ? Một trong nhiều cách là lắng nghe những gì họ nói.

Người cha giàu thường nói, “Nếu ta lắng nghe một người nào đó nói, ta đang bắt đầu dò hiểu và cảm nhận tâm hồn của người ấy”.

Câu nói của người nhóm L

Người thuộc nhóm L, tức là người làm công, thường hay nói, “Tôi đang tìm một công việc ổn định, bảo đảm có mức lương cao và nhiều phúc lợi”.

Câu nói của người nhóm T

Người nhóm T, gồm những người làm tư, hay nói:

“Mức giá của tôi là 35 đô la một giờ”

“Mức hoa hồng bình thường của tôi là 6% giá bán”.

“Dường như tôi chẳng bao giờ kiếm được một người siêng năng và làm giỏi”.

“Tôi đã bỏ ra hơn 20 tiếng cho dự án này”.

Câu nói của người nhóm C

Người nhóm C tức là chủ công ty thường nói, “Tôi đang tìm một giám đốc điều hành mới cho công ty mình”.

Câu nói của người nhóm đ

Người nhóm Đ, gồm những nhà đầu tư, hay nói, “Mức lời của tôi tính trên tỷ lệ lợi nhuận ròng hay gộp”.

Công cụ lời nói

Một khi người cha giàu biết người được phỏng vấn về mặt bản chất thuộc nhóm nào, tối thiểu lúc ấy Người cũng biết được người ấy muốn gì, có thể ra điều kiện gì với anh ta, và nói với anh ta bằng cách nào. Người luôn nói, “Ngôn ngữ là một công cụ đáng sợ”.

Người thường xuyên nhắc nhở chúng tôi điều này. “Nếu con muốn trở thành một người lao động, con cần phải là một bậc thầy về ngôn ngữ”.

Như vậy, một trong những kỹ năng cần thiết để trở thành một người nhóm C thành đạt phải là một người biết làm chủ lời nói, sử dụng lời nói đúng chỗ tùy theo từng đối tượng khác nhau. Người đã dạy chúng tôi trước hết tập lắng nghe cẩn thận những gì một người nói, và tiếp sau đó là biết cách dung những lời nói nào, và dùng chúng trong ngữ cảnh nào để tạo hiệu quả ấn tượng nhất đối với người nghe.

Người cha giàu giải thích, “Một lời nói có thể khơi dậy ý chí của một người, nhưng cũng có thể làm người khác sợ hãi và né tránh”.

Chẳng hạn như từ “mạo hiểm” có thể làm một nhà đầu tư rất phấn khởi trong khi có thể khiến cho một người làm công lãnh lương hoảng hốt và sợ đến co vòi.

Để trở thành những nhà lãnh đạo tài ba, người cha giàu đã nhấn mạnh trước hết chúng tôi phải là những người biết lắng nghe, bởi vì nếu không bạn sẽ chẳng thể nào cảm nhận được cảm xúc và tâm hồn của người đối thoại. Và nếu bạn không cảm nhận và thấu hiểu được con người của họ, bạn sẽ không bao giờ biết được mình đang nói chuyện với hạng người nào.

Những sự khác nhau gốc rễ

Nguyên nhân khiến cho người cha giàu nói, “Hãy lắng nghe lời họ và cảm nhận tâm hồn họ”, là bởi vì tiềm ẩn bên dưới những lời nói ấy chính là những bản chất khác nhau từ gốc rễ của mỗi cá nhân. Dưới đây là một số điểm khái quát nhằm phân biệt một nhóm người này với một nhóm người khác.

L: NHÓM NGƯỜI LÀM CÔNG 

Khi tôi nghe những từ như "bảo đảm" hay "phúc lợi", tôi có thể cảm nhận được người đang nói chuyện với mình là ai. Từ “bảo đảm” vốn  thường được dung khi đối phó với cảm giác sợ hãi. Nếu một người cảm thấy sợ, và người ấy xuất thân từ nhóm L, người ấy sẽ luôn đề cập đến từ đó như một biểu hiện của nhu cầu cần được bảo đảm. Khi đá động đến tiền bạc và công ăn việc làm, có nhiều người rất ghét nỗi sợ ám ảnh thường đi kèm theo với sự bất ổn của nền kinh tế, và chính vì vậy đã khiến họ cảm thấy nhu cầu được bảo đảm là thiết yếu.

Từ “phúc lợi” ám chỉ đến việc bàn bạc rõ ràng những phần thưởng ngoài lương, một kế hoạch tưởng thưởng chắc chắn, chẳng hạn như bảo hiểm y tế hay chế độ về hưu. Điều mấu chốt là họ muốn cuộc sống tương lai của họ được bảo đảm bằng những cam kết trên văn bản hẳn hoi. Họ không cảm thấy hạnh phúc khi gặp sự bất ổn. Chỉ có sự ổn định, chắc chắn mới làm họ thấy thoải mái trong cuộc sống. Tận sâu trong lòng họ luôn nhắc nhở “Tôi cho bạn điều này, bạn phải cho tôi lại điều khác”.

Để có thể trấn áp và chế ngự nỗi sợ, họ đi tìm sự bảo đảm và những thỏa thuận chắc chắn trong việc làm. Điều đó giải thích tại sao họ có lý riêng của họ khi phát biểu như vầy, “Tôi không quá quan tâm đến tiền bạc”.

Đối với những người thuộc nhóm này, ý niệm về sự bảo đảm và ổn định còn quan trọng hơn cả tiền bạc.

Người làm công có thể trở thành chủ tịch công ty hay quản lý tập đoàn. Vấn đề quan trọng đối với những người này không phải là phạm vi công việc hay trách nhiệm mà chính là những thỏa thuận hợp đồng họ ký với công ty hay tập đoàn thuê mướn họ. 

T: NHÓM NGƯỜI LÀM TƯ

Có những người muốn “làm sếp cho chính mình”, hoặc “tự mình làm việc lấy”.

Tôi gọi nhóm người này là nhóm “tự làm lấy”.

Thông thường, khi đụng đến vấn đề tiền bạc, một người thuộc nhóm T không thích nguồn thu nhập của mình bị lệ thuộc vào người khác. Nói cách khác, nếu một người nhóm T làm việc cật lực, họ sẽ đòi hỏi được trả xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra. Những người thuộc nhóm này không thích nguồn thu nhập của mình bị quyết định bởi một cá nhân hay một nhóm người nào khác không làm việc cật lực ở mức độ như họ. Nếu muốn họ bỏ công sức nhiều, bạn phải trả họ xứng đáng. Dĩ nhiên, họ cũng hiểu rất rõ một khi họ không bỏ công nhiều, họ sẽ không được trả nhiều. Đối với tiền bạc, những người thuộc nhóm này rất có ý thức độc lập.

Cảm giác sợ hãi

Như vậy một nhóm người L thường phản ứng với nỗi sợ không có tiền bằng cách đi tìm sự bảo đảm, còn người thuộc nhóm T lại phản ứng một cách khác hẳn. Những người thuộc nhóm T phản ứng với cảm xúc đó không phải bằng cách đi tìm sự bảo đảm, mà họ sẽ cố kiểm soát và làm chủ tình huống để xử lý và hành động theo cách riêng của mình. Điều đó giải thích tại sao tôi gọi nhóm người T là nhóm “tự làm lấy”. Khi đương đầu với nỗi sợ và rủi ro về tài chính, họ muốn “nắm lấy sừng trâu và điều khiển nó theo ý mình”.

Trong nhóm này bạn sẽ dễ nhận thấy nhiều chuyên gia trí thức đã bỏ nhiều năm trong trường đại học như bác sĩ, luật sư và nha sĩ

Cũng thuộc về nhóm này còn gồm những người đi theo một lối giáo dục khác hẳn hoặc bổ sung cho nền giáo dục truyền thống. Đó là những người bán hàng kiếm hoa hồng như môi giới bất động sản chẳng hạn, cũng như những chủ kinh doanh nhỏ thuộc dạng hộ cá thể hay đối tác như chủ shop, chủ thầu, chủ nhà hàng, chuyên viên tư vấn, bác sĩ chuyên khoa, đại lý du lịch, thợ sửa xe, thợ sửa ống nước, thợ mộc, thợ điện, thợ làm tóc, nhà diễn thuyết và các nghệ sĩ.

Câu điệp khúc ưa thích nhất của nhóm này luôn là: “Không ai làm chuyện đó hay hơn tôi”, hoặc như: “Tôi sẽ làm theo cách của tôi”.

Những người làm tư thuộc nhóm này thường là những người theo trường phái “toàn hảo”. Họ luôn muốn làm một điều gì đó đặc biệt và xuất sắc hơn người. Trong thâm tâm họ không bao giờ nghĩ rằng sẽ có ai đó làm tốt hơn chính mình, cho nên họ thực sự không tin vào khả năng của ai có thể làm tốt theo cách mà họ thích, cái cách mà họ cho là “đi đúng hướng”. Ở một vài khía cạnh nào đó, họ chính là những nghệ sĩ thực thụ theo phong cách và phương pháp làm việc do chính họ đề xướng.

Và đó là lý do tại sao xã hội đã thuê mướn những con người như vậy. Nếu bạn cần tới một bác sĩ giải phẫu não, bạn muốn vị bác sĩ đó phải có nhiều năm kinh nghiệm và trình độ, nhưng điều quan trọng hơn hết là bạn muốn vị bác sĩ ấy phải là một nhà “toàn hảo”. Và quan điểm đó cũng đồng thời áp dụng cho nha sĩ, thợ làm tóc, chuyên viên tư vấn về tiếp thị, thợ sửa ống nước, thợ điện, thầy bói, luật sư hay một chuyên viên tư vấn về công ty. Khi thuê mướn những người như vậy, bạn với tư cách là khách hàng dĩ nhiên luôn mong muốn người mình tìm là người giỏi nhất.

Đối với nhóm này, tiền bạc sẽ không quan trọng bằng công việc. Sự độc lập trong suy nghĩ, sự tự do trong cách làm, và việc được nể trọng như một bậc thầy trong lĩnh vực chuyên môn, đối với họ còn quan trọng hơn nhiều so với tiền bạc. Cho nên khi thuê mướn họ, cách hay nhất là bạn nên bảo họ những gì bạn muốn làm và cứ để mặc họ tự lo liệu. Họ không muốn mà cũng chẳng cần bất kỳ sự giám sát nào. Nếu bạn can thiệp vào quá nhiều, họ sẽ bỏ đi ngay và bảo bạn mướn người khác. Tiền bạc thực sự không phải là vấn đề hàng đầu, mà chính là sự độc lập làm việc của họ.

Nhóm người này thường gặp phải khó khăn khi đi thuê mướn người khác làm cho họ, chỉ bởi vì trong đầu họ luôn cho rằng không có ai có thể đảm đương công việc của họ. Và điều đó đã khiến cho nhóm này hay than phiền, “Thời nay thật khó mà kiếm được người giúp việc giỏi”.

Một trở ngại khác là khi nhóm người này đào tạo cho một ai đó làm những gì mà họ đang làm, người mới vào nghề đó lại thường trở thành giống như họ, tức là “làm theo cách của mình”, “làm chủ lấy mình”, và “có cơ hội biểu lộ bản sắc tài ba của mình”.

Chính vì lý do đó, nhiều người thuộc nhóm T rất miễn cưỡng khi tuyển dụng và huấn luyện người khác chỉ vì họ sẽ bị cạnh tranh hơn nữa một khi những kẻ tập sự ấy đã rành nghề và rời bỏ họ. Tình huống đó lại càng đẩy họ làm việc cật lực hơn và đơn độc hơn.

C: NHÓM CHỦ DOANH NGHIỆP HAY CÔNG TY

Nhóm người này hầu như hoàn toàn đối lập với nhóm T. Những người thực sự thuộc nhóm C thích bao quanh mình những người thông minh khác từ cả bốn nhóm L, T, C và Đ. Không giống như những người thuộc nhóm T vốn không thích chia sẻ công việc (vì không ai có thể làm tốt hơn họ), người nhóm C lại thích phân chia công việc. Câu tâm niệm của một người nhóm C chính là: “Tại sao lại gánh lấy công việc đó trong khi ta có thể mướn người khác làm việc cho ta, nhiều khi còn giỏi hơn cả mình”.

Henry Ford là một điển hình của nhóm này. Có một câu chuyện truyền khẩu về nhân vật ly kỳ này như sau. Một  nhóm trí thức lớn tiếng chỉ trích và chê bai Ford là ngu dốt, không biết một tí gì. Ford mời họ vào văn phòng làm việc của mình và thách những người này có thể đặt bất kỳ câu hỏi nào mà Ford không trả lời được. Thế là nhóm trí thức đó vây quanh một trong những nhà công nghiệp có quyền lực nhất của nước Mỹ, và liên tiếp chất vấn. Ford lắng nghe hết mọi câu hỏi và khi mọi người không còn hỏi nữa, ông chỉ nhấc máy điện thoại lên và triệu vào một vài trợ lý giỏi của ông, yêu cầu họ trả lời tất cả những câu hỏi của nhóm trí thức đó. Ông đã kết thúc buổi họp mặt bằng một câu tuyên bố với nhóm trí thức rằng, chẳng thà ông mướn những người thông minh có học thức tìm ra câu trả lời để ông có thể dành trí óc sáng suốt cho những công việc quan trọng khác, những công việc chẳng hạn như “suy nghĩ”.

Một trong những câu nói nổi tiếng của Ford: :”Suy nghĩ là một công việc khó khăn nhất. Đó chính là lý do tại sao rất ít người muốn làm điều đó”.

Lãnh đạo là khả năng sử dụng những ưu thế sở trường của mọi người

Thần tượng của người cha giàu là Henry Ford. Người đã bắt tôi đọc những quyển sách về các nhân vật như Ford, hoặc John D.Rockefeller – vua dầu hỏa. Người thường xuyên khuyến khích tôi và con trai của Người trau dồi những kỹ năng lãnh đạo mấu chốt và thuật kinh doanh. Giờ đây khi hồi tưởng lại, tôi có thể hiểu được nhiều người có được kỹ năng này hoặc kỹ năng kia, nhưng để trở thành một người thành công trong nhóm C, người ấy cần phải có hai loại kỹ năng đó. Tôi cũng nhận ra rằng hai loại kỹ năng ấy có thể học hỏi và tự trau dồi. Đối với thuật kinh doanh và khả năng lãnh đạo, cả hai đều có khía cạnh của khoa học và xã hội. Và cả hai  đều cần phải học hỏi suốt đời.

Lãnh đạo, như người cha giàu đã nói, chính là “khả năng sử dụng những ưu thế sở trường của con người”. Chính vì vậy Người đã rèn luyện tôi và con của Người những thủ thuật chuyên môn cần thiết để thành công trong kinh doanh, chẳng hạn như khả năng đọc hiểu các báo cáo tài chính, khả năng tiếp thị, kỹ năng bán hàng, kế toán, quản trị, sản xuất và điều đình. Người nhấn mạnh đến việc học cách làm việc chung cũng như cách lãnh đạo người khác. Người luôn nói, “Những thủ thuật kinh doanh học không khó, cái khó chính là ở chỗ làm việc chung với mọi người”.

Các kiểu trở thành doanh nhân

Tôi thường nghe mọi người nói, “Tôi sẽ khởi sự kinh doanh cho chính mình”.

Nhiều người có khuynh hướng cho rằng con đường đạt đến sự bảo đảm về tiền bạc và hanh phúc chính là “tự làm những điều anh thích”, hoặc “tung ra một sản phẩm mà chưa ai làm”. Vì thế, họ vội vã đổ xô vào kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, họ đã đi theo lối hình 1

Nhiều người cuối cùng trở thành một doanh nhân thuộc nhóm T chứ không phải nhóm C.

Hẳn nhiên, không nhất thiết nhóm này phải tốt hơn nhóm kia, cả hai nhóm đều có những điểm yếu cũng như những điểm mạnh riêng, có mức độ rủi ro và phần thưởng đền bù khác nhau. Thế nhưng, rất nhiều người muốn bắt đầu ngay từ nhóm C nhưng lại kết thúc với nhóm T và bị kẹt dính vào trong đó trên con đường chinh phục vào thế giới bên phải của Kim tứ đồ.

Lại cũng có nhiều người bắt đầu sự nghiệp kinh doanh của mình theo lối hình 2. Thế nhưng rút cuộc cũng bị vướng vào nhóm T và bị kẹt ở đó (H3)

Nhiều người khác lại thử sự nghiệp kinh doanh theo hướng hình 4. Nhưng chỉ có một vài người có đủ khả năng đứng vào hàng ngũ những người nhóm C. Tại sao vậy? Bởi vì những kỹ năng chuyên môn cũng như những bản tính con người cần để thành công cho mỗi nhóm lại thường rất khác nhau. Chính vì vậy, muốn thành công thực sự trong một nhóm, bạn cần phải có những kỹ năng và lối suy nghĩ thích hợp của nhóm đó.

Sự khác nhau giữa cách kinh doanh của nhóm T với cách kinh doanh của nhóm C

Có những người nhóm C thực thụ có thể bỏ mặc việc kinh doanh của họ hơn cả năm trời, để rồi quay lại thấy chuyện kinh doanh của mình ngày càng có lời và hoạt động càng có hiệu quả hơn lúc họ vắng mặt. Trong khi đó, đối với một người thuộc nhóm T, nếu người ấy bỏ đi hơn cả năm trời, chắc chắn chuyện kinh doanh của họ sẽ chẳng còn ra thể thống gì nữa.

Vậy điều gì đã tạo ra sự khác nhau đó? Nói theo cách đơn giản, người nhóm T làm chủ công việc. Trong khi đó, người nhóm C làm chủ hệ thống, quy trình và sau đó mướn những người có khả năng điều hành hệ thống đó. Hay nói một cách khác, trong phần lớn trường hợp, bản thân người nhóm T đã chính là một “hệ thống”, cho nên họ không thể nào bỏ mặc chuyện kinh doanh của mình. N

Thử lấy ví dụ của một nha sĩ. Vị nha sĩ bỏ hàng năm trời miệt mài trong trường lớp để trở thành một hệ thống độc lập. Bạn là thân chủ bị đau răng, thế là bạn đi khám ở phòng mạch vị nha sĩ đó. Vị nha sĩ sẽ chữa răng cho bạn, và bạn trả tiền rồi đi về. Bạn cảm thấy vừa lòng và truyền miệng với bạn bè về vị nha sĩ tuyệt vời đó. Hầu hết trong mọi trường hợp, vị nha sĩ ấy tự mình làm tất cả mọi chuyện.Vấn đề ở chỗ một khi vị nha sĩ ấy làm và đi du lịch, thu nhập của anh ta cũng “nghỉ” ngay.

Trái lại, những người chủ kinh doanh nhóm C có thể đi du lịch suốt bởi vì họ làm chủ một hệ thống, một quy trình chứ không phải một công việc. Khi người nhóm C đi du lịch, tiền bạc vẫn chảy vào túi người ấy đều đều.

Như vậy để trở thành một người nhóm C thành công cần phải có:

A. Quyền sở hữu hay quyền kiểm soát hệ thống, quy trình; và

B.     Khả năng lãnh đạo những người khác

Với những người nhóm T muốn trở thành người nhóm C, họ cần phải tự chuyển biến con người của mình và những gì họ biết về cách vận hành một hệ thống. Đáng tiếc thay, nhiều người không thể làm được chuyện đó, hoặc họ quá say mê với chính hệ thống của mình.

Bạn có thể làm một ổ bánh mì kẹp thịt ngon hơn tiệm McDonald’s không?

Nhiều người đến xin tôi lời khuyên làm thế nào khởi sự một công ty, hoặc làm thế nào gọi vốn cho một sản phẩm hay một ý tưởng kinh doanh mới.

Thông thường, tôi ngồi im lắng nghe trong khoảng mười phút, và trong thời gian ấy, tôi có thể nhận ra mức độ quan tâm của họ. Họ quan tâm đến sản phẩm hay hệ thống kinh doanh? Tôi thường nghe những câu nói thế này (hãy nhớ không gì quan trọng bằng lắng nghe và xem xét bản chất của người đối thoại từ những lời họ nói với bạn):

  • -         Sản phẩm này tốt hơn hẳn loại sản phẩm mà công ty kia làm ra
  • -         Tôi đã thăm dò nhiều nơi, nhưng chưa thấy ai bán loại sản phẩm này
  • -         Tôi sẽ chia sẻ với anh ý tưởng về sản phẩm này, nhưng anh phải chia cho tôi 25% lợi nhuận
  • -         Tôi đã từng có kinh nghiệm hàng năm trời về sản phẩm này

Đó chính là những câu nói của một người bắt rễ từ phần bên trái của Kim tứ đồ, nhóm L hay T.

Những lúc ấy, tôi phải thật tế nhị bởi vì tôi đang đối thoại với những giá trị, những tư tưởng mà những người này đang khư khư bám chặt lấy trong nhiều năm, thậm chí qua nhiều thế hệ. Nếu tôi không tế nhị hoặc không kiên nhẫn, tôi có thể làm tan vỡ ngay sự háo hức của họ với ý tưởng kinh doanh thật nhạy cảm nhưng cũng thật bấp bênh, và nhất là tôi có thể sẽ làm thui chột ý chí của những người đang muốn vượt rào từ nhóm này sang nhóm khác.

Ổ bánh mì kẹp thịt và chuyện làm ăn

Vì tôi cần phải cẩn trọng khi trò chuyện đến đây, tôi thường dùng ví dụ về ổ bánh mì kẹp thịt McDonald’s để phân tích. Sau khi lắng nghe mọi nỗi niềm của họ, tôi chậm rãi hỏi, “Bạn có thể tự mình làm một ổ bánh mì kẹp thịt ngon hơn của tiệm McDonald’s được không?”

Cho tới nay, tất cả những người mà tôi đã gặp khi đưa ra ý tưởng về một sản phẩm mới, lúc được hỏi câu hỏi đó đều nói “có”. Tất cả họ đều có thể xuống bếp và làm một ổ bánh mì kẹp thịt có chất lượng vượt xa tiệm McDonald’s.

Và khi ấy, tôi liền hỏi họ câu hỏi tiếp theo, “Vậy bạn có thể tự mình xây dựng một hệ thống kinh doanh tốt hơn McDonald’s không?”

Vài người nhìn thấy sự khác nhau ngay lập tức, còn số khác thì không. Và tôi có thể nói sự khác nhau đó tùy thuộc vào vị trí của người của người ấy trên Kim tứ đồ - phía bên trái Kim tứ đồ, chỉ biết quan tâm đến ý tưởng một ổ bánh mì ngon hơn, hoặc phía bên phải của Kim tứ đồ, có thể đặt hết quan tâm vào hệ thống kinh doanh.

Tôi đã cố gắng mọi cách để giải thích có biết bao doanh nhân ngoài kia đang cung cấp những hàng hóa và dịch vụ có chất lượng vượt xa hơn những tập đoàn đa quốc gia đồ sộ, cũng như trên thế giới hiện có hàng tỉ người có thể làm một ổ bánh mì kẹp thịt ngon hơn McDonald’s. Nhưng chỉ có mỗi McDonald’s có được một hệ thống có thể phục vụ hàng tỉ ổ bánh mì kẹp thịt cho mọi người trên thế giới.

Hãy nhìn về những nhóm bên kia

Khi mọi người có thể bắt đầu nhìn thấy những nhóm bên kia (tức là nhóm C hoặc nhóm Đ), tôi liền đề nghị họ thử đi đến tiệm McDonald’s, mua một ổ bánh mì kẹp thịt và vừa ăn vừa quan sát hệ thống đã làm ra ổ bánh đó. Hãy ghi chú những chuyến xe tải chở đến những ổ bánh mì bột còn sống, những chủ trai nuôi bò, kẻ đi đặt mua thịt bò và mẩu quảng cáo trên tivi với Ronald McDonald’s. Hãy quan sát việc huấn luyện những thanh thiếu niên đang tập sự bán hàng cùng câu chào với khách “Xin chào bạn, rất hoan nghênh bạn đến tiệm McDonald’s”.  Hãy để ý đến cách bài trí trong các cửa tiệm McDonald’s, phạm vi địa bàn mỗi tiệm, các lò nướng bánh mì, và hàng triệu ký khoai tây chiên ở khắp thế giới đều có cùng một vị y hệt nhau. Và đừng quên những nhà môi giới cổ phiếu đang gọi vốn cho McDonald’s ở Phố Wall. Một khi họ có thể hiểu được toàn bộ bức tranh hoạt động của hệ thống McDonald’s, họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để đi vào nhóm C và Đ trên Kim tứ đồ.

Thực tế là trong khi có vô vàn những ý tưởng mới, có hàng tỉ người cung cấp hàng hóa và dịch vụ, và có hàng tỉ sản phẩm khác nhau, lại có rất ít người biết cách xây dựng những hệ thống kinh doanh tuyệt vời cho chính họ.

Bill Gates của Microsoft không làm ra một sản phẩm vĩ đại, mà chính ông đã mua nó lại từ tay người khác và thiết lập nên một hệ thống toàn cầu vĩ đại xung quanh sản phẩm đó.

Đ: NHÓM NGƯỜI ĐẦU TƯ

Những người đầu tư làm ra tiền từ tiền. Những người này không cần phải làm việc bởi vì đồng tiền đã làm việc cho họ.

Nhóm Đ chính là sân chơi của người giàu. Bất kể ai đang kiếm tiền từ nhóm nào, nếu người ấy muốn giàu có, người ấy phải đạt tới đích sân chơi của nhóm Đ. Chính tại nhóm Đ này, tiền bạc được chuyển đổi thành của cải và sự giàu có.

Kim tứ đồ

Đó chính là Kim tứ đồ. Kim tứ đồ chỉ đơn giản đưa ra sự khác nhau về cách tạo ra thu nhập của người thuộc nhóm L, T, C hay Đ. Sự khác nhau ấy có thể được tóm tắt trong hình sau:

Thời gian và tiền bạc của người khác

Phần lớn chúng ta đều nghe về những bí mật làm giàu trở thành tỉ phú như thế này

  •   Thời gian của người khác
  •   Tiền bạc của người khác
Hai điều này có thể thấy ngay ở phía bên phải của Kim tứ đồ, khi những người làm việc ở phía bên trái Kim tứ đồ lại là những người mà thời gian và tiền bạc của họ bị nhóm bên kia sử dụng.
Nguyên nhân chủ yếu đã khiến hai vợ chồng tôi bỏ thời gian để ra sức xây dựng một hệ thống kinh doanh kiểu nhóm C hơn là kiểu nhóm T, là bởi vì chúng tôi đã nhận ra ích lợi về lâu về dài trong việc sử dụng “thời gian của người khác”. Một trong những điểm yếu của một người thuộc nhóm T là sự thành công của họ phải đổi bằng cái giá làm việc cực nhọc. Nói cách khác, càng thành công chừng nào người ấy lại càng phải làm việc nhiều giờ hơn, cần mẫn hơn.
    Khi thiết kế mô hình kinh doanh kiểu nhóm C, thành công chứng tỏ sự mở rộng và khuếch trương của hệ thống, dẫn đến việc sẽ thuê mướn càng  nhiều nhân công. Nói cách khác, bạn sẽ làm việc ít hơn mà vẫn kiếm nhiều tiền và có nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn.

    Phần còn lại của quyển sách này sẽ đi sâu vào những kỹ năng cũng như cách suy nghĩ cần có của một người thuộc phía bên phải Kim tứ đồ. Kinh nghiệm bản thân của tôi cho thấy để có thể thành công trong nhóm bên phải, cần phải có một lối suy nghĩ và những thủ thuật kinh doanh khác nhau. Nếu bạn có đủ khả năng sẵn sàng thay đổi cách suy nghĩ của mình, tôi tin chắc bạn sẽ thấy con đường đi đến sự tự do và bảo đảm về tiền bạc khá dễ dàng. Dĩ nhiên sẽ có bạn thấy con đường đó chông gai và khó đi vô cùng, nhưng sở dĩ như vậy là vì bạn đã quá kẹt dính vào một nhóm, quá bảo thủ với lối suy nghĩ lâu nay của mình.
    Ở một mức tối thiểu nào đó, bạn sẽ thấy được tại sao có một vài người làm việc ít, nhưng lại kiếm nhiều tiền, trả thuế ít và được bảo đảm về tài chính hơn những người khác. Đó chỉ là vấn đề hiểu hiết nhóm nào cần phải nhắm tới và khi nào thực hiện cuộc hành trình đó cho chính bản thân minh.

Kim chỉ nam của sự tự do
    Kim tứ đồ không phải là một nhóm quy tắc hay bí quyết gì cả. Nó chỉ là kim chỉ nam hướng dẫn cho những ai muốn sử dụng nó. Kim tứ đồ đã dẫn dắt vợ chồng tôi suốt cuộc hành trình từ lúc vật lộn với tiền bạc mỗi ngày cho đến lúc đạt đến sự bảo đảm về tài chính và cuối cùng là sự tự do hoàn toàn. Chúng tôi không muốn mỗi ngày phải thức dậy và làm việc vì tiền suốt cả đời minh.

Sự khác nhau giữa  người giàu và những người khác
    Cách đây  vài năm, tôi đọc được một bài báo tiết lộ đối với hầu hết những người giàu, khoảng 70% thu nhập của họ đến từ các khoản đầu tư (nhóm Đ) và phần còn lại không quá 30% thu nhập phát sinh từ lương (nhóm L). Nếu những người ấy có là những người làm công đi chăng nữa, họ cũng là nhân viên trong tập đoàn của họ.
    Nguồn thu nhập của những người ấy có thể được biểu hiện như sau:
    
    Trong khi đó đối với đa số người nghèo và tầng lớp trung lưu, tối thiểu 80% thu nhập của họ có từ lương, thuộc nhóm L và T, và ít hơn 20% thu nhập phát sinh từ các khoản đầu tư, thuộc nhóm Đ.

Sự khác nhau giữa việc có tiền và sự giàu có
    Trong chương 1, tôi đã viết rằng hai vợ chồng tôi thành triệu phú vào năm 1989, nhưng mãi đến năm 1994 chúng tôi mới đạt đến sự tự do hoàn toàn về tiền bạc. Có sự khác nhau giữa việc có tiền và sự giàu có. Vào khoảng năm 1989, chuyện làm ăn của chúng tôi đã đem lại cho chúng tôi rất nhiều tiền. Chúng tôi càng lúc càng kiếm được nhiều hơn mà không cần phải làm nhiều giờ hơn, bởi vì hệ thống kinh doanh cứ liên tục phát triển mà không cần chúng tôi phải bỏ sức ra nhiều. Chúng tôi đã đạt được điều mà hầu hết mọi người coi đó là sự thành công về tiền bạc. 
    Chúng tôi vẫn cần phải bỏ nhiều tiền thu được từ chuyện kinh doanh của mình vào đầu tư các tài sản hữu hình. Công việc kinh doanh của chúng tôi thành công rực rỡ, nhưng chính lúc đó, chúng tôi cần phải tập trung phát triển các tài sản của mình đến mức mà nguồn thu nhập mang lại từ những tài sản đầu tư ấy vượt xa chi phí sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi.
    
    Qúa trình nỗ lực đó của chúng tôi có thể được tóm tắt trong những sơ đồ dưới đây.



Đến năm 1994, thu nhập thụ động (1) từ tất cả các tài sản của chúng tôi đã vượt xa chi phí sinh hoạt. Đến khi ấy, chúng tôi mới thực sự giàu có
        (1) Thu nhập mang lại từ các tài sản đầu tư được gọi là "thu nhập thụ động" (passive income), dùng để phân biệt với thu nhập mang lại từ việc làm hay chuyện kinh doanh (earned income) (LND)

    Trong thực tế, chuyện kinh doanh của chúng tôi cũng được coi như một tài sản bởi vì nó mang lại thu nhập mà không cần đến nhiều công sức chúng tôi bỏ vào. Trên quan điểm cá nhân của chúng tôi về sự giàu có, chúng tôi luôn đảm bảo mình phải có những tài sản đầu tư như địa ốc hay chứng khoán mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí sinh hoạt của mình, và được như thế chúng tôi mới có thể tự cho mình là giàu có. Một khi nguồn thu nhập từ cột tài sản trở nên lớn hơn nguồn thu nhập kiếm được từ chuyện kinh doanh, chúng tôi liền sang nhượng việc làm ăn đó cho đối tác. Từ lúc ấy, chúng tôi mới thực sự giàu có.

Định nghĩa sự giàu có

    Sự giàu có được định nghĩa là: “Số ngày bạn có thể sinh hoạt mà không đòi hỏi sự làm việc của bạn (hay của người nhà bạn) trong khi bạn vẫn có thể duy trì mức sống như bình thường”.
    Chẳng hạn, nếu chi phí sinh hoạt hàng tháng của bạn là 1.000 đô la, và nếu bạn có một khoản tiết kiệm 3.000 đô la, sự giàu có của bạn xấp xỉ cỡ 3 tháng hay 90 ngày sinh hoạt. Sự giàu có được đo bằng thời gian chứ không phải bằng tiền bạc.

    Vào khoảng năm 1994, sự giàu có của hai vợ chồng tôi là vô hạn (trừ phi có những biến động kinh tế khủng hoảng nặng nề) bởi vì thu nhập của chúng tôi có đã vượt xa mức chi phí sinh hoạt của chúng tôi.

    Sau cùng, không phải bao nhiêu tiền bạn làm ra mới quan trọng, mà chủ yếu là bao nhiêu tiền bạn có thể giữ và số tiền đó sẽ sinh lời thêm cho bạn trong bao lâu. Hàng ngày, tôi đều gặp rất nhiều người kiếm được khối tiền nhưng gần như toàn bộ số tiền họ kiếm được đều chảy ra ngoài qua cột chi phí. Cách xài tiền của họ có thể được tóm tắt trong sơ đồ sau:
    Mỗi lần họ kiếm được thêm một ít tiền, họ đi mua sắm. Họ thường mua ngôi nhà lớn hơn hoặc mua xe mới, mà những điều đó chỉ càng làm cho họ mắc nợ lâu hơn và làm việc vất vả hơn, để rồi họ chẳng còn lại nhiều tiền đầu tư vào cột tài sản của mình. Họ xài tiền đến chóng mặt, chẳng khác nào bị mắc triệu chứng nhuận tràng tài chính.

 


Xài tiền hết ga

Khi đề cập đến xe hơi, chúng ta hay nghe đến chuyện “chạy hết ga”. Dĩ nhiên ở tốc độ “chạy hết ga” đó vẫn phải đảm bảo xe không bị xì khói hay cháy máy.

    Đối với chuyện tiền bạc cũng vậy. Có rất nhiều người bất kể giàu hay nghèo cũng xài tiền ở mức “hết ga”. Kiếm được bao nhiêu tiền, họ đều xài thẳng tay. Vấn đề nằm ở chỗ khi một chiếc xe cứ chạy hết ga như vậy, chắc chắn tuổi thọ của máy xe sẽ bị giảm đi rất nhiều. Điều đó cũng tương tự với cách xài tiền hết ga.

    Nhiều người bạn của tôi là bác sĩ cho biết, vấn đề xã hội hiện nay là ngày càng có nhiều người bị áp lực căng thẳng do làm việc nhiều mà không bao giờ có đủ tiền. Một người bạn bảo nguyên nhân lớn nhất thường gây ra rối loạn về sức khỏe chính là triệu chứng “ung thư túi tiền”.

Tiền làm ra tiền

    Bất kể bao nhiêu thu nhập kiếm được, bạn cũng nên dành một ít bỏ vào nhóm Đ. Nhóm Đ đặc biệt luôn hành động theo phương châm tiền làm ra tiền, hoặc quan điểm bắt đồng tiền làm việc cho mình sao cho bạn không cần phải làm việc cật lực hơn nữa. Thế nhưng điều quan trọng ở chỗ là có rất nhiều cách đầu tư khác nhau.

Các hình thức đầu tư khác nnhau

    Mọi người thường đầu tư vào chuyện học của mình. Hệ thống giáo dục truyền thống rất quan trọng bởi vì bạn càng có học thức, bạn sẽ càng dễ kiếm ra tiền. Bạn có thể mất bốn năm học đại học, nhưng bù lại mức thu nhập của bạn có thể tĂng từ 24.000 đô la lên đến 50.000 đô la mỗi năm. Nếu giả sử một người trung bình có thể làm việc tích cực trong suốt bốn mươi năm, việc bỏ bốn năm vào đại học hay sau đại học thực sự là một cách đầu tư tuyệt vời.

    Làm việc cần cù và trung thành là một cách đầu tư khác, chẳng hạn như trường hợp một nhân viên làm lâu năm trong một công ty hay một chính phủ. Thế nhưng bù lại người ấy sẽ nhận được một khoản tiền về hưu kếch xù theo như hợp đồng. Hình thức đầu tư ấy rất phổ biến trong Thời Đại Công Nghiệp, nhưng hoàn toàn lỗi thời trong Thời đại Thông Tin.

    Nhiều người khác đầu tư bằng cách sinh nhiều con và có một đại gia đình, và bù lại họ có thể nhờ cậy con mình lúc về già. Cách đầu tư ấy một thời rất thông dụng trong các thế kỷ trước, thế nhưng do điều kiện kinh tế mỗi lúc một khó khăn hơn ở thời đại mới, nhiều gia đình đã coi việc nuôi cha mẹ già như một gánh nặng bắt buộc.

    Những kế hoạch về hưu của chính phủ như Bảo hiểm Xã hội và Bảo hiểm Y tế ở các nước (trong đó có Việt Nam), mà những khoản bảo hiểm này được trả bằng cách khấu trừ lương, cũng là một cách đầu tư nhưng lại được áp đặt bởi luật pháp. Tuy nhiên do những biến động lớn về nhân khẩu và giá cả sinh hoạt, hình thức đầu tư này không chắc bảo đảm những quyền lợi được hưởng của người tham gia như chính phủ đã cam kết.

    Cũng có những hình thức đầu tư về hưu độc lập khác, chẳng hạn như kế hoạch về hưu cá nhân. Thông thường chính phủ sẽ đặc cách miễn giảm thuế cho cả người lao động và người sử dụng lao động nếu tham gia những chương trình này (1)

(1)    (1) Chẳng hạn như ở Úc, ngoài mức 8% bảo hiểm xã hội trích từ lương mà người lao động phải tham gia theo quy định của pháp luật, người lao động có thể chọn cách trích từ lương một khoản đóng vào quỹ hưu trí cá nhân, của chính phủ hay của các công ty đầu tư. Những khoản này có thể làm miễn giảm thuế thu nhập cá nhân khi khai thuế hàng năm. (LND)

 Thu nhập từ đầu tư

    Mặc dù tất cả những hình thức kể trên đều được coi là đầu tư, nhóm Đ thường tập trung vào những khoản đầu tư đem lại thu nhập liên tục trong suốt thời gian làm việc của họ. Tiêu chuẩn để trở thành một người thuộc nhóm Đ cũng giống như tất cả những nhóm khác, đó là bạn có kiếm được tiền từ chính nhóm Đ hay không. Nói cách khác, tiền bạc có làm việc cho bạn và tạo thu nhập cho bạn hay không.

    Thử xem xét một người mua một căn nhà để đầu tư bằng cách cho thuê. Nếu tiền thuê nhà thu được nhiều hơn chi phí bỏ ra để duy trì căn nhà, nguồn thu nhập đó xuất phát từ nhóm Đ. Điều đó cũng tương tự với những người có thu nhập từ tiền lời tiết kiệm, hay lãi cổ phần hoặc trái phiếu. Như vậy, tiêu chuẩn của nhóm Đ chính là bao nhiêu tiền bạn kiếm được từ nhóm này mà không cần phải làm việc trong nhóm đó.

Qũy về hưu của tôi có phải là một hình thức đầu tư không?

    Bỏ tiền vào quỹ về hưu đều đặn là một cách đầu tư và cũng là việc làm khá hay. Hầu hết chúng ta đều hy vọng trở thành nhà đầu tư khi chúng ta về hưu, thế nhưng đối với mục đích của quyển sách này, nhóm Đ không phải như vậy mà là những người kiếm được tiền từ những khoản đầu tư ngay trong những năm chúng ta còn làm việc. Thực tế là không phải ai cũng tiết kiệm bỏ tiền vào quỹ hưu trí của mình. Hầu như đa số mọi người khi bỏ tiền vào quỹ hưu trí đều hy vọng một khi về hưu, số tiền trong quỹ đó sẽ trở nên nhiều hơn so với số họ bỏ vào trong suốt những năm qua.

    Hoàn toàn có sự khác biệt rõ ràng giữa những người tiết kiệm tiền kiểu đó, với những người, bằng cách đầu tư đã chủ động điều khiển đồng tiền làm việc tạo ra thêm thu nhập cho mình.

Thế những người môi giới cổ phiếu có phải là nhà đầu tư không?

    Nhiều người làm nghề tư vấn trong giới đầu tư theo định nghĩa không phải là những người thực sự tạo ra thu nhập cho mình từ nhóm Đ.

    Chẳng hạn, phần lớn các nhà môi giới cổ phiếu, địa ốc, tư vấn tài chính, chủ ngân hàng và chuyên viên kế toán, về bản chất chỉ là những người thuộc nhóm L hay T. Nghĩa là thu nhập của họ kiếm được từ công việc chuyên môn của họ, chứ không phải từ những tài sản do họ làm chủ.

    Tôi có nhiều người bạn sống bằng nghề mua bán cổ phiếu. Họ mua cổ phiếu ở giá thấp và hy vọng bán lại ở giá cao. Như vậy, họ chỉ thực sự sống bằng nghề “mua bán”, chẳng khác gì với một người chủ tiệm bán lẻ, mua hàng hóa giá sỉ và bán ra với giá bán lẻ. Họ vẫn phải bỏ công sức của chính họ để kiếm ra tiền. Chính vì thế, những người ấy thuộc về nhóm T nhiều hơn là nhóm Đ.

    Thế tất cả mọi người có thể trở thành nhà đầu tư không? Dĩ nhiên là có thể, nhưng điều quan trọng là cần phải biết sự khác nhau giữa một người kiếm thu nhập từ hoa hồng, hay tư vấn tính theo giờ hoặc trả bằng lương, hay cố mua thấp bán cao, với một người kiếm được tiền do tìm thấy hay tạo ra những cơ hội đầu tư béo bở.

    Có một cách tìm ra một nhà tư vấn giỏi. Đó là, hãy hỏi họ bao nhiêu phần trăm thu nhập của họ kiếm được từ hoa hồng, phí tư vấn so với khoản thu nhập thụ động kiếm được từ các khoản đầu tư hay những công việc kinh doanh do họ làm chủ.

    Tôi được nhiều bạn là chuyên viên kế toán tiết lộ (mà không vi phạm bí mật thông tin khách hàng), nhiều người tư vấn đầu tư chuyên nghiệp hầu như kiếm được rất ít thu nhập từ các khoản đầu tư. Nói cách khác, “họ không thực hành như những gì mà họ chỉ vẽ cho người khác”.

Những ưu điểm của thu nhập kiếm được từ nhóm Đ

    Như vậy sự khác nhau chủ yếu phân biệt nhóm Đ là những người này tập trung vào việc điều khiển đồng tiền tạo ra thêm tiền. Nếu họ thực sự giỏi việc đó, họ có thể khiến đồng tiền làm việc cho chính họ và gia đình họ suốt hàng trăm năm.

    Ngoài ưu điểm rõ ràng nhất là biết cách điều khiển đồng tiền mà không phải mỗi sáng thức dậy đi làm, còn có nhiều ưu điểm khác về thuế mà những người làm công không có được.

    Một trong nhiều nguyên nhân làm cho người giàu mỗi lúc một giàu hơn là bởi vì đôi khi họ có thể kiếm được hàng triệu đô la mà không phải trả một đồng thuế nào một cách hợp pháp. Đó là bởi vì họ tạo ra tiền từ “cột tài sản”, chứ không phải “cột thu nhập”. Nghĩa là họ kiếm tiền như một nhà đầu tư, chứ không phải người làm công.

    Đối với những người làm việc vì tiền, họ không những bị đánh thuế cao hơn, mà sẽ chẳng bao giờ thấy được khoản tiền mà thuế đã lấy đi từ thu nhập của họ.

Tại sao không có nhiều người hơn trở thành nhà đầu tư?

    Những người nhóm Đ là những người làm việc ít, kiếm tiền nhiều, và trả thuế ít. Thế thì tại sao không có nhiều người hơn trở thành nhà đầu tư? Lý do giải thích câu hỏi đó cũng tương tự với nguyên nhân tại sao không có nhiều người dám tự kinh doanh cho chính mình. Chỉ có thể tóm tắt trong một từ: “rủi ro”.

    Nhiều người không thích nghĩ đến việc đưa hết số tiền dành dụm mà họ làm lụng cực khổ để rồi không bao giờ thấy số tiền đó quay lại với mình. Nhiều người rất sợ bị mất tiền, chẳng thà họ chọn không đầu tư, không đương đầu với rủi ro  cho dù họ có thể kiếm được rất nhiều tiền đi chăng nữa.

    Một tài tử điện ảnh Hollywood từng tuyên bố: “Tôi không quan tâm đến mức lời kiếm được từ đầu tư. Điều tôi lo lắng nhất là số tiền đầu tư đó tôi có lấy lại được hay không”.

    Chính vì nỗi lo sợ bị mất tiền đó đã vô hình trung phân biệt bốn nhóm người đầu tư như sau:

  1.  Những người không dám mạo hiểm và không làm gì hết, chỉ chọn lối chơi an toàn và bỏ tiền vào tài khoản ngân hàng.
  2. Những người giao chuyện đầu tư cho người khác quản lý, như chuyên viên tư vấn tài chính hay nhà quản lý quỹ hỗ tương
  3. Những người thich trò đỏ đen
  4. Những nhà đầu tư thực thụ
    Có sự khác nhau giữa người thích trò đỏ đen với một người đầu tư thực thụ: Đối với người thích trò đỏ đen, đầu tư là một trò chơi cơ hội, trong khi đối với người đầu tư, đó là một trò chơi trí tuệ và đòi hỏi nhiều thủ thuật. Còn đối với người giao chuyện đầu tư cho người khác quản lý, đầu tư chỉ là một trò chơi mà họ không thích học hỏi tí nào. Đối với họ, điều quan trọng chủ yếu là phải kiếm được một chuyên viên tư vấn tài chính thật giỏi.
    Trong các chương kế tiếp, quyển sách sẽ trình bày với bạn về bảy cấp bậc đầu tư khác nhau giúp cho bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
    
Rủi ro có thể được giảm đến mức tối thiểu
    
    Một tin mừng đối với chuyện đầu tư là rủi ro có thể được giảm đến mức tối thiểu, thậm chí có thể triệt tiêu hoàn toàn, và bạn có thể kiếm được nhiều hơn số vốn bạn bỏ ra nếu như bạn rành rẽ những quy tắc của cuộc chơi đó.
    Nếu bạn nghe một người nào đó nói câu này, bạn có thể biết ngay người đó là một nhà đầu tư thực thụ: “Bao lâu tôi có thể lấy lại vốn, và mức thu nhập đem lại cho tôi sau này sẽ là bao nhiêu sau khi tôi đã lấy lại được vốn đầu tư ban đầu?”.
    Người đầu tư thực thụ muốn biết trong bao lâu họ có thể lấy lại số vốn đầu tư ban đầu, trong khi những người đầu tư vào quỹ hưu trí phải đợi nhiều năm mới có thể biết được họ sẽ lấy lại tiền của mình hay không. Đó chính là sự khác nhau lớn nhất giữa một người đầu tư chuyên nghiệp với một người để dành tiền chuẩn bị cho cuộc sống về hưu của mình.
    Chính nỗi sợ bị mất tiền đã khiến cho hầu hết mọi người đi tìm kiếm sự đảm bảo và ổn định. Thế nhưng, nhóm Đ không phải nguy hiểm như nhiều người nghĩ. Nhóm Đ cũng như ba nhóm kia, nhưng chỉ khác ở chính những kỹ năng và lối suy nghĩ. Những kỹ năng của nhóm Đ vẫn có thể học được nếu như bạn chịu bỏ thời gian học hỏi chúng.

    Sự khác nhau giữa kế hoạch về hưu của Thời đại Công nghiệp trước đây với kế hoạch về hưu của Thời đại Thông Tin hiện nay
    
    Khi tôi còn nhỏ, người cha giàu thường khuyến khích tôi dám chấp nhận rủi ro về tiền bạc và học hỏi cách đầu tư. Người hay nói, “Nếu con muốn giàu, con cần phải học cách chấp nhận rủi ro. Hãy học cách trở thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp”.
    Khi về nhà, tôi đã kể lại cho người cha học thức của tôi những gì mà người cha kia đề nghị học cách đầu tư và kiểm soát rủi ro. Cha ruột tôi trả lời, “Ta không cần phải học cách đầu tư con ạ. Ta đang tham gia chương trình bảo hiểm của chính phủ và có một kế hoạch về hưu của công đoàn giáo dục mà những nguồn bảo hiểm xã hội đó đều được bảo đảm. Vậy đâu có lý do gì ta cần phải chơi trò mạo hiểm với tiền của mình”.
    Cha ruột tôi rất tin tưởng vào những kế hoạch về hưu như thế của Thời đại Công nghiệp, như chương trình bảo hiểm xã hội của chính phủ cho người lao động.
    Cho nên khi tôi gia nhập vào hải quân Mỹ, Người rất sung sường. Thay vì lo lắng cho đứa con có thể bỏ mạng ở Việt Nam, Người nói, “Chỉ cần phục vụ trong quân đội hai mươi năm, con sẽ được bảo đảm phúc lợi y tế và hưu trí suốt đời”.
    Mặc dù vẫn còn đang được áp dụng, những kế hoạch hưu trí như thế đã trở nên lỗi thời và lạc hậu. Quan điểm cho rằng công ty phải chịu trách nhiệm về tài chính cho cuộc sống của bạn sau khi về hưu và chính phủ sẽ chăm lo cho những nhu cầu của bạn ở tuổi về hưu thông qua chương trình bảo hiểm xã hội, là một quan niệm rất cũ và không còn có giá trị trong thời đại mới này.

Mọi người cần trở thành những nhà đầu tư
    
    Khi chúng ta thay đổi từ kế hoạch hưu trí Phúc lợi bảo đảm mà tôi gọi là kế hoạch thời công nghiệp, đến kế hoạch hưu trí Đóng góp bảo đảm mà tôi gọi là kế hoạch thời Thông tin, hậu quả là giờ đây bạn phải tự lo chăm sóc lấy mình cho tuổi về hưu của bạn. Điều không may là rất ít người nhận thấy sự thay đổi đó.

Kế hoạch hưu trí ở Thời đại Công nghiệp

    Trong Thời đại Công nghiệp, một kế hoạch hưu  trí Phúc lợi bảo đảm quy định công ty sẽ đảm bảo cho bạn, người lao động, một khoản tiền nhất định (thường được trả hàng tháng) một khi bạn còn sống. Mọi người đều cảm thấy an toàn bởi vì những kế hoạch đó đảm bảo cho bạn một nguồn thu nhập ổn định.

Kế hoạch hưu trí ở Thời đại Thông tin

    Một vài thay đổi luật pháp, và các công ty giờ đây không còn chịu trách nhiệm đảm bảo tài chính cho bạn khi bạn đến tuổi về hưu. Thay vào đó, các công ty áp dụng hình thức hưu trí Đóng góp bảo đảm (1). “Đóng góp bảo đảm” là một thuật ngữ chỉ việc bạn chỉ có thể hưởng được những khoản tiền mà bạn và công ty đã đóng góp vào quỹ hưu trí trong suốt thời gian bạn làm việc. Nói cách khác, nguồn thu nhập khi bạn về hưu sẽ được quyết định chủ yếu từ những khoản đã đóng góp vào quỹ hưu trí trước đây. Nếu bạn và công ty không đóng góp gì hết, bạn sẽ không được hưởng lương hưu. 
(1) Chương trình phúc lợi này được quy định bắt buộc bởi luật pháp. Ở Mỹ, gọi là Defined Contribution pension plan, ở Úc gọi là Superannuation, và ở nước ta gọi là Chương trình tham gia Bảo hiểm Xã hội (LND) 

    Một tin mừng là trong Thời đại Thông tin, tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể. Thế nhưng, tuổi thọ của bạn có thể sẽ lâu hơn nguồn thu nhập hưu trí của bạn, và nếu như vậy đó quả thật là một điều đáng lo. Hơn nữa, những quỹ hưu trí này còn không được bảo đảm an toàn do những biến động và rủi ro của thị trường tài chính”.

 Kiểu đầu tư của những người không phải là nhà đầu tư

    Hiện nay, thị trường chứng khoán luôn là đầu câu chuyện của cả thế giới. Sở dĩ như thế là vì có nhiều yếu tố đã làm sôi nổi thị trường, mà một trong những yếu tố đó chính là lực lượng những người không chuyên đang cố trở thành những nhà đầu tư trên thị trường. Con đường tài chính của họ có thể được vẽ như thế này.



    Hầu hết những người này, vốn là những người thuộc nhóm L hay T, thường có khuynh hướng căn bản thiên về sự ổn định. Điều đó giải thích tại sao họ tìm kiếm những công việc an toàn, những nghề nghiệp ổn đinh, hay bắt đầu những việc làm ăn nhỏ mà họ có thể kiểm soát được. Do sự biến động trong kế hoạch hưu trí, họ buộc phải lấn sang nhóm Đ nơi mà ở đó họ hy vọng có thể tìm được sự “an toàn” cho những năm tháng về hưu sắp tới của mình. Điều bất hạnh là nhóm Đ không phải là nhóm nhắm tới sự an toàn, mà chính là nơi đương đầu và chấp nhận mạo hiểm.

    Trước hiện tượng “di cư ồ ạt” của những người từ phía bên trái Kim tứ đồ đến tìm sự an toàn, trên thị trường chứng khoán xuất hiện nhiều kiểu đầu tư mà bạn thường nghe như thế này.
1. ĐA DẠNG HÓA – Những người đi tìm sự an toàn rất hay dùng nhóm từ này. Tại sao vậy? Vì đó là một kiểu chiến lược đầu tư nhằm mục đích “không bị mất tiền”. Vì đó không phải là chiến lược để thắng, cho nên những người nhóm Đ thành công hay những người giàu không hề đa dạng hóa mà họ nỗ lực tập trung bằng hết mọi cố gắng của mình.

    Warren Buffett, một trong những nhà đầu tư xuất chúng của thế giới đã nói như thế này về kiểu, “đa dạng hóa”: “Chiến lược mà chúng tôi áp dụng không theo trường phái phải đa dạng hoá giáo điều. Nhiều người phê bình chiến lược đó có nhiều rủi ro hơn những chiến lược thông thường. Chúng tôi không đồng ý với lời phê bình đó. Chúng tôi tin rằng một chính sách đầu tư danh mục tập trung có lựa chọn có khả năng giảm mức rủi ro rất nhiều nếu chính sách đó có thể khiến cho người đầu tư đặt vấn đề hết sức nghiêm túc như với chuyện làm ăn, mà đồng thời vẫn làm cho người đầu tư cảm thấy yên tâm với những khía cạnh kinh tế của danh mục trước khi anh ta quyết định mua nó”.

Nói cách khác, Warren Buffett cho rằng kiểu đầu tư nhắm vào một danh mục tập trung là một chiến lược tốt hơn kiểu đa dạng hóa. Theo ý của ông, thay vì dàn trải, sự tập trung sẽ khiến bạn suy nghĩ và hành động một cách khôn ngoan hơn, cẩn thận hơn. Bài báo của ông còn đề cập tới việc một người đầu tư trung bình thường tránh sự biến động vì họ thường đồng nhất sự biến động với rủi ro. Thay vào đó, Warren Buffett đã viết, “Trong thực tế, những người đầu tư chuyên nghiệp lại rất ưa thích có biến động”.

Đối với hai vợ chồng tôi, để thoát khỏi sự nghèo khó và đạt đến sự tự do hoàn toàn về tiền bạc, chúng tôi đã không đa dạng hóa mà tập trung vào một số ít khoản đầu tư của mình.

2.     CỔ PHIẾU BLUE CHIP (1) – Những người đầu tư theo kiểu chơi an toàn thường hay mua những cổ phiếu blue chip. Tại sao vậy? Bởi vì trong đầu họ luôn cho rằng những loại cổ phiếu này an toàn hơn. Trong khi những công ty đó an toàn, thị trường chứng khoán lại không an toàn tí nào (2)

(1) Thuật ngữ chỉ những cổ phiếu của các đại công ty hay tập đoàn lớn (LND)

(2) Cổ phiếu của tập đoàn hàng không Ansette (Úc) và tập đoàn năng lượng Enron (Mỹ) từng được liệt vào loại "blue chip". Vào năm 2001, cả hai tập đoàn này đều bị phá sản. (LND)

3.     QUỸ HỖ TƯƠNG – Những người có ít kiến thức về đầu tư thường cảm thấy an toàn hơn khi đầu tư số tiền dành dụm của họ vào các quỹ hỗ tương, bởi vì họ nghĩ những nhà quản lý các quỹ này có chiến lược đầu tư giỏi hơn họ. Đối với những người không có ý định trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp, đây là một cách làm rất khôn ngoan. Thế nhưng vấn đề ở chỗ là các quỹ hỗ tương này chưa chắc chắn ít rủi ro hơn. Trong thực tế, nếu xảy ra một cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán, chúng ta vẫn có thể thấy một cuộc biến động lớn mà tôi tiên đoán đó là “một cuộc khủng hoảng của thị trường quỹ hỗ tương”, mà ảnh hưởng tai họa của nó sẽ khủng khiếp chẳng kém cuộc khủng hoảng đối với các thị trường tài chính khác đã từng xảy ra trong lịch sử, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng thị trường mua bán hoa tulip vào năm 1610, và cuộc khủng hoảng South Seas Bubble vào năm 1620, và cuộc khủng hoảng thị trường trái phiếu vào năm 1990.

    Ngày hôm nay, thị trường đầy ắp hàng triệu người, về mặt bản chất là những người đi tìm kiếm sự an toàn, nhưng do áp lực của những biến động kinh tế đã khiến họ từ phía bên trái của Kim tứ đồ phải “vượt rào” đi sang phía bên phải, mà ở đó không hề cho phép sự tồn tại của những ý tưởng về an toàn, đảm bảo. Chính điều đó mới làm cho tôi cảm thấy lo lắng nhất. Nhiều người vẫn cho rằng các chương trình hưu trí mà họ đang tham gia là an toàn, nhưng thực tế lại không hề an toàn tí nào. Một khi xảy ra một cuộc sụp đổ hay khủng hoảng lớn, những kế hoạch hưu trí đó của họ sẽ tan thành mây khói. Những kế hoạch hưu trí đó của họ không an toàn như những chương trình hưu trí của những thế hệ trước.

Những bước ngoặt lớn về kinh tế đang tới gần

    Đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy có một bước ngoặt lớn về kinh tế đang tới gần. Bước ngoặt đó thường đánh dấu sự kết thúc thời đại cũ và mở ra một kỷ nguyên mới. Ở cuối mỗi thời đại, luôn có những người tiên phong, nhưng cũng có nhiều người khác vẫn bám khư khư vào những quan niệm của thời đại trước. Tôi e rằng những người nào vẫn còn trông mong sự bảo đảm tài chính của mình vào trách nhiệm của một đại công ty hay chính phủ, họ sẽ thất vọng trong những năm tới đây. Những ý tưởng đó thuộc về Thời đại Công nhiệp chứ không phải là Thời đại Thông tin.

    Không ai có thể tiên đoán về tương lai. Tôi đặt mua báo của nhiều công ty dịch vụ tin tức đầu tư. Các công ty luôn đưa ra lời ước đoán không giống nhau. Công ty này cho rằng tương lai gần rất sáng sửa, trong khi một công ty khác thì tiên đoán một cuộc khủng hoảng thị trường và suy thoái toàn cầu đang sắp xảy ra. Để có thể khách quan, tôi phải lắng nghe từ cả hai phía bởi vì cả hai quan điểm trái người đó đều có cơ sở lý luận chặt chẽ và thuyết phục. Vấn đề cần nắm bắt không phải là kiểu chơi trò coi bói, cố đoán những gì sẽ xảy đến trong tương lai, mà tôi cần phải nắm thông tin kịp thời ở cả hai nhóm C và Đ và chuẩn bị tinh thần đối phó với bất kỳ những gì có thể xảy ra. Một người nếu được chuẩn bị đầy đủ vẫn có khả năng phát triển tốt cho dù nền kinh tế có đi theo hướng nào chăng nữa.

    Nếu lịch sử có thể được coi là một trong những công cụ phân tích, một người thọ tới 75 tuổi sẽ trải qua một lần khủng hoảng và hai lần suy thoái kinh tế. Dĩ nhiên, cha mẹ của tôi đều đã trải qua cuộc khủng hoảng trong thời đại của họ, nhưng thế hệ dân Mỹ trong giai đoạn chiến tranh ở Việt Nam vẫn chưa hề trải qua một cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế nào như vậy cả. Và các chuyên gia kinh tế cho rằng cứ trung bình mỗi 60 năm sẽ xảy ra một cuộc đại khủng hoảng (1).

    Ngày nay, tất cả chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề khác, chứ không chỉ là sự bảo đảm việc làm. Tôi cho rằng điều mà chúng ta cần quan tâm chính là sự bảo đảm về tài chính lâu dài cho chính mình, và không giao khoán trách nhiệm đó cho công ty hay chính phủ. Thời đại đã thực sự thay đổi khi các công ty đồng loạt tuyên bố họ sẽ không còn chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của bạn khi bạn về hưu. Một khi các công ty đều chuyển sang kế hoạch hưu trí đóng góp bảo đảm, họ đã đưa ra thông điệp là từ nay trở đi bạn phải tự lo cho việc về hưu của mình. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cần phải trở thành những nhà đầu tư khôn ngoan hơn, và càng phải cẩn thận hơn với những biến động lên xuống đến chóng mặt của các thị trường tài chính. Tôi thành thật đề nghị với các bạn chẳng thà chúng ta bỏ thời gian học hỏi cách đầu tư hơn là giao tiền của mình cho người khác đầu tư dùm bạn. Nếu bạn chỉ giao tiền cho quỹ hỗ tương hay một chuyên viên tư vấn, bạn có thể phải đợi đến 65 tuổi mới biết được những người ấy có làm tốt công việc bạn giao phó hay không. Nếu như họ bết bát, bạn sẽ phải làm việc lại cho tới cuối cuộc đời mình. Hàng triệu người sẽ lâm vào trường hợp đó bởi vì khi ấy đã quá muộn cho họ tự đầu tư hay học hỏi cách đầu tư.

Hãy học cách quản lý rủi ro

    Luôn có cách đầu tư ít rủi ro nhưng vẫn sinh lời cao. Tất cả những gì bạn cần làm là hãy học cách làm sao có thể thực hiện được. Điều đó không khó. Trong thực tế, cách học hỏi ấy chẳng khác gì với cách tập chạy xe đạp. Ban đầu, bạn có thể vấp ngã, té lên té xuống, nhưng dần dần sau đó bạn sẽ không bị ngã, và việc đầu tư sẽ trở thành một bản năng tự nhiên thứ hai giống như việc cưỡi xe đạp.

    Vấn đề lớn nhất đối với những người thuộc nhóm bên trái của Kim tứ đồ là khả năng chấp nhận rủi ro. Sở dĩ phần lớn mọi người đều trở thành nhóm L hay T là vì ở những nhóm đó họ nghĩ có thể tránh được những rủi ro về tiền bạc. Thay vì né tránh rủi ro, tôi đề nghị các bạn hãy nên học cách kiểm soát rủi ro việc đầu tư tài chính.

Hãy chấp nhận rủi ro

    Những người chấp nhận rủi ro thường là những người làm thay đổi thế giới. Hiếm có ai trở nên giàu có mà không dám chấp nhận rủi ro. Có quá nhiều người vẫn còn dựa vào chính phủ để né tránh những rủi ro về tiền bạc trong cuộc đời. Như chúng ta đã biết, khi Thời đại Thông tin bắt đầu cũng là lúc chấm dứt việc tồn tại những bộ máy chính phủ cồng kềnh, đơn giản là vì chính phủ càng lớn chừng nào thì ngân sách nhà nước sẽ càng tiêu hao nhiều chừng ấy. Điều không may là hàng triệu người trên thế giới vẫn còn dựa vào những ý tưởng về phúc lợi hay an sinh xã hội sẽ bị rớt lại phía sau về tiền bạc. Thông điệp của Thời đại Thông tin là tất cả chúng ta phải tự lực cánh sinh cho chính mình, phải trưởng thành lên trong vấn đề tiền bạc cá nhân của mình.

    Quan điểm “hãy ráng học và tìm một công việc an toàn ổn định” là một quan điểm sinh ra từ Thời đại Công nghiệp. Chúng ta không còn sống trong thời đại đó nữa. Thời đại đang thay đổi. Thế nhưng vấn đề là những quan điểm của con người lại không thay đổi. Họ vẫn nghĩ họ có quyền được hưởng một điều gì đó. Họ vẫn cho rằng nhóm Đ không có liên quan gì đến họ cả. Họ cứ nghĩ chính phủ, đại công ty, liên đoàn lao động, quỹ hỗ tương hay gia đình họ sẽ chăm sóc cho họ một khi họ không còn khả năng làm việc nữa. Tôi rất hy vọng là những suy nghĩ đó của họ sẽ đúng. Và những người như thế không cần phải đọc tiếp quyển sách này.

    Chính vì quan tâm đến những người nhận thức được nhu cầu trở thành những nhà đầu tư đã thôi thúc tôi viết nên quyển sách này. Quyển sách được viết cho những ai muốn “vượt rào” từ phía bên trái sang phía bên phải của Kim tứ đồ nhưng không biết bắt đầu bằng cách nào. Bất cứ ai cũng có thể đi hết cuộc hành trình “xé rào” ấy nếu có những kỹ năng thích hợp và một ý chí quyết định dứt khoát.

    Nếu bạn đã tìm thấy con đường đi đến tự do cho chính bạn, tôi xin thật lòng chúc mừng bạn, và mong bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người khác, và hướng dẫn họ nếu họ cần sự giúp đỡ của bạn. Hãy hướng dẫn những người ấy, nhưng hãy để họ tự kiếm lấy một con đường cho chính mình bởi vì có rất nhiều con đường dẫn đến sự tự do về tài chính. 

    Dù cho bạn có quyết định như thế nào chăng nữa, mong bạn hãy nhớ một điều này. Sự tự do về tài chính có thể đạt được miễn phí, nhưng cái giá đạt được điều đó không phải rẻ. Đối với tôi, cái giá mà tôi phải trả hoàn toàn xứng đáng với sự tự do mà tôi đạt được. Một bí quyết lớn như thế này: Không cần phải có tiền hay một nền học thức cao mới có thể đạt được sự tự do về tài chính. Mà con đường đi đến sự tự do đó cũng không nhất thiết có nhiều rủi ro đâu. Thay vào đó, cái giá của sự tự do về tiền bạc được đo bằng những giấc mơ, khao khát cháy bỏng, và một khả năng thắng được những nỗi thất vọng sẽ xảy đến với chúng ta trong cuộc hành trình. Bạn có sẵn sang chấp nhận trả cái giá đó không?

    Một người cha của tôi đã dám chấp nhận trả cái giá đó, trong khi người kia không dám nhưng lại trả một cái giá khác hẳn hoàn toàn.


Câu đố nhóm C

    Bạn có phải là một người thuộc nhóm chủ doanh nghiệp thực thụ?

Nếu bạn trả lời CÓ cho câu hỏi sau, bạn chính là người nhóm C thực thụ.



    Bạn có dám bỏ mặc công việc kinh doanh của mình trong khoảng một năm cho người khác, và khi quay lại nhận thấy việc kinh doanh đó sinh lời nhiều hơn và được quản lý tốt hơn so với lúc bạn bỏ đi?

1. Có                                                    2. Không

Chương 3

TẠI SAO MỌI NGƯỜI CHỌN AN TOÀN HƠN LÀ TỰ DO
_____________________________________________________________________
Nhiều người tìm kiếm sự đảm bảo công việc vì đó là những gì họ được dạy, cả ở nhà lẫn ở trường
_____________________________________________________________________

Tìm kiếm tự do

    Tôi biết có nhiều người đi tìm sự tự do và hạnh phúc. Vấn đề là hầu hết mọi người không được đào tạo để hành động hay tồn tại trong nhóm C và Đ. Vì thiếu sự trang bị này, vì đã được dạy một cách rập khuôn để bảo đảm công việc và vì cứ bị mắc nợ, phần lớn mọi người đã hạn chế cuộc tìm kiếm sự tự do về tài chính trong  giới hạn phần bên trái của Kim tứ đồ. Không may là sự bảo đảm hay sự tự do về tài chính ít khi nào đạt được trong nhóm L và T, mà sự bảo đảm và tự do thực sự ấy chỉ được tìm thấy trong phần bên phải của Kim tứ đồ.

    Tìm kiếm tự do trong vòng luẩn quẩn của công ăn việc là

    Một điều ích lợi của Kim tứ đồ là có thể quan sát lối sống của một người. Nhiều người bỏ cả đời mình đi tìm kiếm sự ổn định hay sự tự do, nhưng rút cuộc chỉ luẩn quẩn loanh quanh giữa công ăn việc làm. Dưới đây là một ví dụ minh họa.
    Tôi có một người bạn quen từ thời đi học. Cứ mỗi năm năm, tôi lại nghe tin về anh ấy lúc nào cũng phấn khởi vì đã tìm được một việc làm với một công ty mơ ước của anh ta. Anh yêu quý công ty vì được làm công việc mình thích. Anh yêu công việc của mình vì anh được một chức vụ cao, có lương bổng hậu hĩ, làm với các đồng nghiệp giỏi, hưởng phúc lợi dồi dào và có cơ hội thăng tiến đều đặn. Nhưng rồi khoảng bốn năm rưỡi sau, tôi lại nghe tin về anh, nhưng lần này anh hoàn toàn thất vọng. Theo anh, công ty nơi anh làm giờ đây thật tệ hại và bất công, không đối xử tốt với nhân viên cấp dưới. Anh không ưa chủ của mình bởi vì anh không được đề bạt thăng tiến, công ty không trả lương cho anh xứng đáng. Rồi sáu tháng trôi qua, anh lại cảm thấy hạnh phúc và hồi sinh vì tìm được một công ty tuyệt vời khác. Mọi việc cứ lặp đi lặp lại như thế. 
    Lối sống như thế của người bạn đó có thể được minh họa như thế này.
    Lối sống của anh là một sự luẩn quẩn trong công ăn việc làm. Hiện tại, anh sống khá thoải mái bởi vì anh là một người khôn ngoan, nhanh nhẹn và có sức thu hút. Nhưng rồi chẳng bao lâu, năm tháng sẽ bắt kịp với tuổi đời của anh, và những người trẻ khác sẽ dần dần thay thế những vị trí công việc mà anh đã làm qua. Anh có vài ngàn đô la trong tài khoản tiết kiệm nhưng chẳng có gì chuẩn bị cho tuổi về hưu của mình. Anh ở trong một căn nhà mà anh chưa làm chủ thực sự, mỗi ngày phải trang trải chi phí nuôi con và vẫn chưa trả dứt số nợ học đại học. Đứa con nhỏ nhất của anh được 8 tuổi và hiện sống với người vợ trước của anh, còn anh thì đang nuôi nấng một đứa con khác được 14 tuổi.
    Anh hay nói với tôi, “Tôi không cần phải lo lắng. Tôi còn trẻ và còn có nhiều thời gian trước mắt”. Giờ đây, tôi đang tự hỏi không biết anh còn có thể nói như thế được không.
    Theo tôi, anh cần phải nghiêm túc nghĩ ngay đến việc “xé rào” sang nhóm C hoặc Đ. Anh cần phải tập làm quen ngay với một cách sống mới, một quá trình học hỏi mới. Trừ phi số anh đỏ trúng số độc đắc hay cưới được một người vợ giàu, nếu cứ giữ lối sống cũ như thế anh sẽ phải làm việc kiếm tiền quần quật suốt đời.

Hãy lo làm việc của mình

    Một hướng đi phổ biến mà nhiều người hay theo là từ nhóm L chuyển sang nhóm T. Trong giai đoạn khủng khoảng và sa thải nhân công, nhiều người tìm ra thông điệp chung, rời bỏ vị trí trong những công ty lớn và bắt đầu sự nghiệp kinh doanh cho chính mình. Lúc này có một trào lưu kinh doanh phổ biến được gọi là “kinh doanh tại nhà”. Rất nhiều người quyết định dứt khoát “làm việc cho chính mình”, “tự kinh doanh”, và “tự mình làm chủ”. Hướng đi ấy có thể được minh họa như sau.
    Trong tất cả những chọn lựa, tôi cảm thấy đáng tiếc cho lối sống này nhiều nhất. Theo tôi, trở thành một người thuộc nhóm T có thể gặt hái được nhiều thành công nhưng phải đổi lại rất nhiều rủi ro. Tôi nghĩ nhóm T là một nhóm khó sống nhất. Mức độ thất bại rất cao. Và nếu như bạn chọn lựa lối sống đó, việc bạn thành công lại còn tồi tệ hơn khi thất bại. Đó là bởi vì khi bạn thành đạt, bạn sẽ phải làm việc cực hơn so với những người thuộc các nhóm khác, và bạn sẽ phải làm việc quần quật trong một thời gian rất dài, nếu bạn muốn tiếp tục và duy trì sự thành công ấy.
    Lý do khiến những người thuộc nhóm T làm việc cực nhất là vì họ thuộc kiểu người “vừa nấu cơm vừa rửa chén”. Họ phải đảm nhiệm và quán xuyến tất cả mọi công việc mà những quản lý và nhân viên trong một công ty lớn thường làm. Người nhóm T phải lo nghe điện thoại, xử lý với khách hàng, thuê mướn nhân công, sa thải lao động, làm luôn những việc khi một nhân viên nghỉ phép, đối phó với nhân viên thuế vụ hay thanh tra nhà nước,…
    Cho nên bản thân tôi thường hay phản ứng khi nghe một người nào đó tuyên bố sẽ tự kinh doanh cho mình. Tôi thành tâm chúc người đó gặp nhiều may mắn, thế nhưng tôi lại rất lo ngại cho người ấy. Tôi đã chứng kiến rất nhiều người đem hết số tiền dành dụm của mình, hay mượn vốn từ bạn bè, người thân ra kinh doanh. Chỉ trong vòng ba năm sau khi làm việc vất vả, cực nhọc, việc kinh doanh thất bại. Và thay vì kiếm được tiền cho tuổi về hưu, họ lại gánh biết bao nhiêu nợ chồng chất.
    Theo một con số thống kê trên toàn nước Mỹ, cứ trung bình trong mười hộ cá thể kinh doanh, hết chín hộ bị phá sản sau năm năm. Và trong số những hộ kinh doanh tồn tại được, hết 90% hộ bị thất bại sau năm năm kế. Nói cách khác, gần như 99% hộ kinh doanh cá thể đều gặp thất bại sau mười năm kinh doanh.
    Tôi nghĩ nguyên nhân chính khiến cho phần lớn gặp thất bại là do thiếu kinh nghiệm làm ăn và thiếu vốn. Một nguyên nhân khác khiến cho kẻ sống sót sau năm năm đầu hoàn toàn phá sản sau năm năm kế tiếp, không phải do thiếu vốn mà do hết sinh lực kinh doanh. Những giờ làm việc căng thẳng và cực nhọc gặm nhấm dần mòn sinh lực của họ. Nhiều người nhóm T bị vắt kiệt sinh lực trong người. Đó là lý do tại sao nhiều chuyên viên có trình độ thường hay thay đổi chỗ làm, hoặc tự khởi sự cho mình một công việc kinh doanh mới mẻ, và thê thảm hơn là chết sớm. Có lẽ những điều đó lý giải tại sao tuổi thọ trung bình của các bác sĩ và luật sư, theo thống kê, thường thấp hơn tuổi 58 trong khi tuổi thọ trung bình của những người bình thường khác thường vào khoảng 70.
    Đối với những người sống sót, dường như họ đã trở nên quen thuộc với lối sống mòn mỏi của việc sáng dậy đi làm và làm việc cần cù suốt đời. Và đó có lẽ là tất cả những gì mà họ biết.
    Nhiều người nhóm T khôn ngoan tìm cách sang nhượng cơ sở kinh doanh ở thời điểm cao trào cho người khác có nhiều sinh lực và tiền bạc hơn, trước khi họ bị vắt kiệt sức vì làm việc quá tải. Họ nghỉ xả hơi một thời gian, đi du lịch đây đó, rồi trở về bắt tay xây dựng một cơ sở kinh doanh khác. Họ cứ làm như thế tạo ra cơ sở kinh doanh cho chính mình, và họ yêu thích quy trình ấy. Thế nhưng, họ phải biết lúc nào họ cần rút tay và ngừng lại.

Lời khuyên tệ nhất cho con của bạn
    Nếu bạn sinh trước thập niên ba mươi, lời khuyên đi học lấy điểm cao và tìm một công việc ổn định an toàn là một lời khuyên tốt. Nhưng nếu bạn sinh sau năm 1930, lời khuyên ấy không còn hợp thời nữa.
    Tại sao vậy?
Câu trả lời








0 nhận xét:

Đăng nhận xét